Thứ Sáu, 11 tháng 10, 2024

CƠ VÀ PHÁP

 

CƠ VÀ PHÁP

Cơ là căn cơ, pháp là giáo pháp của Phật. Theo Tịnh Độ tông, cơ là chúng sanh, pháp là chỉ cho sự cứu độ của Phật A Di Đà. Chúng sanh hợp cơ, hợp pháp thì tu mới có thành công, có kết quả. Cơ có nhiều cơ, pháp cũng có nhiều pháp. Chung quy có một mục đích là làm cho chúng sanh hết khổ. Cũng vậy, ở bệnh viện có quầy thuốc, có rất nhiều loại thuốc. Bác sĩ căn cứ vào bệnh lý của mỗi người bệnh để chọn thuốc cho thích hợp của mỗi con bệnh. Uống thuốc đúng bệnh thì thuốc mới hiệu nghiệm. Vì thế, người tu học cũng vậy, tin sâu vào cơ và pháp, tức chúng ta tin vào căn cơ yếu kém của ta đang trong thời mạt pháp, và tin pháp môn Tịnh độ, để nương vào bản nguyện Phật A Di Đà, niệm Phật cầu vãng sanh là phương pháp duy nhất.

Điều quan trọng ở đây là tự biết mình, tự lượng được căn cơ của bản thân mình. Khi đã nhận biết căn cơ của mình không đủ thì phải nương nhờ tha lực, tức nương nhờ bản nguyện Phật A Di Đà. Biết ta đang là phàm phu, không phải là Thánh, không phải thiện, chưa giải thoát, tất nhiên phải nương nhờ tha lực.

Thiền tông rất hiếm khi nói “Ta là phàm phu”, mà thường cổ vũ chúng ta “xưa nay là Phật, Phật là phật đã thành, ta là Phật sẽ thành, phải có khí khái của bậc trượng phu, chẳng nên tự khinh mình”.  Tịnh Độ tông và Thiền tông đứng trên hai góc độ khác nhau. Như vậy, các pháp môn tu hành khác cũng đều đứng trên cảnh giới lý tưởng. Chúng ta xưa nay là Phật, từ bổn địa giác tánh mà hạ thủ công phu, chúng ta được gán cho cái “mác” cao vót như vậy, nhưng rót cuộc vẫn là một phàm phu.

Pháp môn Tịnh độ đổi góc độ, đổi phương hướng, đứng trên lập trường, hiện tại ta là phàm phu, để khế nhập tu theo pháp môn Tịnh độ không hạn cuộc theo khuôn khổ xưa nay, không hạn cuộc quan điểm của Thiền tông, Mật tông, Luật tông .v..v…

Đại sư Ấn Quang nói: “Pháp môn tu hành có hai loại khác nhau. Nếu dựa vào sức mình tu giới, định, huệ để đoạn hoặc chứng chơn, liễu sanh thoát tử, thì gọi là pháp môn thông đồ (pháp môn phổ thông, đường lối của Thánh đạo môn). Nếu đầy đủ lòng tin chân thật, tha thiết mong mỏi, trì niệm danh hiệu Phật, nương vào sức từ bi của Phật được vãng sanh Tây phương thì gọi là pháp môn đặc biệt. Pháp môn “thông đồ” là pháp môn mang tính cách phổ thông. Pháp môn “đặc biệt” là pháp môn rất đặc biệt, chẳng giống các pháp môn khác.

Đại sư Ấn Quang nói “Phật pháp có vô lượng pháp môn, tất cả các pháp môn dù là Đại thừa hay Tiểu thừa,  Quyền giáo hay Thật giáo, đều phải tu giới, định, tuệ, đoạn trừ tham sân si, phải dẹp sạch trơn, chẳng còn chút nào, thì mới có khả dĩ được liễu sanh thoát tử. Điều này khó tựa hồ như đi lên trời, chẳng phải là chỗ cho hạng phàm phu đầy trói buộc như chúng ta có thể mơ ước.”

Đại sư Ấn Quang ngài than: “Thật đau lòng, từ xưa đến nay, nhiều người tự nhận là đang hoằng dương Phật pháp, cho là đang hoằng dương pháp môn Tịnh độ, nhưng họ lại đem quan điểm của pháp môn thông đồ để giảng pháp môn Tịnh độ. Tự cho là hoằng pháp lợi sanh, nhưng thực chất là đang làm hại chúng sanh, làm chướng ngại Phật pháp, mà tự mình cũng chẳng biết”.

Tu pháp môn Tịnh độ, không nói xưa nay ta là Phật, mà nói chúng ta đang là phàm phu. Tự nhận là phàm phu điên đảo, tội chướng, khổ não, đầy dẫy tạp niệm, là tội ác, sẽ đi vào con đường hiểm sanh tử. Có quan niệm như vậy, mới có tâm mong cầu thoát khỏi, có tâm mong cầu nương tựa Phật, mong cầu vãng sanh.

Chúng ta là phàm phu trong biển sanh tử tội lỗi đau khổ như vậy, tự mình không thể bơi vào bờ được, biển khổ mênh mông không bờ bến, chúng ta không biết phương hướng nào để vào bờ. Trong lúc ấy có chiếc thuyền mời gọi đưa chúng ta vào bờ, nếu chúng ta không chịu nương thuyền vào bờ, thì không biết chừng nào chúng ta thấy được bờ, huống nữa được vào bờ. Biển khổ mênh mông như vậy, với sức tự lực của chúng ta không thể nào ra khỏi bể khổ được, vì thế phải nương vào tha lực.

Thân người rất khó được mà lại dễ mất, còn chúng sanh trong ba đường, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, pháp duyên rất khó gặp, nếu có gặp cũng không thể nghe, không thể hiểu được Phật pháp. Chúng ta được thân người là cơ duyên rất tốt, để học để tu so với chúng sanh trong ba đường kia. Thời gian sống làm thân người rất ngắn, không quá bảy tám mươi năm, khó sanh lại dễ mất. Còn chúng sanh trong ba đường ác, dễ vào mà khó ra, thời gian cả vạn muôn năm chưa chắc ra khỏi. Bởi thế tu pháp môn Tịnh độ một đời ra khỏi sanh tử, là điều đặc biệt trên các điều đặc biệt. Chúng ta đang có cơ hội để thoát mà không chịu hồi đầu, ngoài ra chẳng có cơ hội nào để được thoát, chẳng có hy vọng nào.

Đức Phật A Di Đà vì chúng sanh phát 48 nguyện, vì chúng sanh mà kiến lập cõi Tịnh độ, kêu gọi chúng sanh quay về quê hương Cực lạc. Vậy chúng ta quyết định  tin sâu vào bản nguyện của Phật A Di Đà. Nhất hướng chuyên niệm A Di Đà. Ngài vì chúng ta mà phát 48 nguyện như vậy để làm gì?  Là để nhiếp thọ chúng sanh, để cứu độ chúng sanh. Vì thế chúng ta vô nghi, vô lự, là chẳng nghi ngờ chẳng lo lắng.

Chúng sanh mê muội, nghiệp chướng dẫy đầy, con đường đại lộ không chịu đi, lại chọn con đường nhỏ hẹp khúc khuỷu quanh con, đầy nguy hiểm, lại chen lấn nhau, thật quá đáng thương!

“Thiên đường hữu lộ vô nhân đáo

Địa ngục vô môn hữu khách tầm”.

Con đường dẫn đến thiên đường thì không ai đến. Địa ngục không cửa mà nhiều người tìm. Cũng vậy, nơi tu tập thanh vắng, không ai đến, còn những chỗ vui chơi, giải trí, ăn nhậu thì lượng người đông nghịt. Nơi thanh vắng là nơi thiên đường, nơi đông người là chỗ địa ngục. Vì nơi đó đáp ứng đầy đủ nhu cầu cho ngũ dục, là nơi sát sanh, tạo nghiệp.

Pháp khó và pháp dễ:  Như việc xây nhà, tu các pháp môn khác như việc xây nhà, là pháp tu thông thường. Khi làm nhà người ta phải chủng bị vật liệu, nhân công và đào móng. Mới tiến hành từng bước, cuối cùng mới hoàn thành ngôi nhà để ở. Còn tu pháp môn Tịnh độ thì không như vậy, là pháp dễ tu, pháp nương tha lực. Đức Phật A Di Đà xây dựng hoàn tất ngôi nhà rồi, chỉ mời chúng ta vào ở. Chúng ta như một đứa con nghèo thiếu, Phật như cha mẹ giàu có, nên việc xây dựng sẳn nhà cho con ở là việc bình thường. Đứa  vào nhà ở không đòi hỏi một điều kiện nào. Phật thương chúng sanh đau khổ còn hơn cha mẹ thương con là vậy. Cha mẹ thương con chỉ một đời, còn Phật thương chúng sanh nhiều đời. Vì thế chúng ta không nghi ngờ, không lo lắng việc vãng sanh.

Dựa vào tự lực, cũng như việc xây nhà thì rất khó, rất khổ, rất lâu. Có người nói rằng, tôi không còn phiền não, không còn vọng tưởng, tâm phải thanh tịnh, mới được vãng sanh, tôi phải có trí tuệ, có công đức mới được vãng sanh. Những suy nghĩ như thế đều là sai lầm, niền tin không thật, so với bản thệ nguyện của Phật A Di Đà, chẳng phù hợp. Mà phải tin tôi là phàm phu, là nghiệp chướng tội lỗi, tôi tin vào bản nguyện Phật A Di Đà, sẽ nhiếp thọ tôi, vì thế tôi cầu vãng sanh Tịnh độ.

Hãy tin vào nguyện lực từ bi của Phật sẽ giúp cho chúng sanh phàm phu tự hoá giải hết vọng tưởng nghiệp chướng phiền não, để thể nhập vào thế giới Cực lạc. Ví như ly nước đục, dùng cái lọc, lọc thế nào cũng không hết đục. Nhưng chỉ cần một cục phèn chua bỏ vào ly nước đục, để yên thì nước đục lắng xuống, nước trong hiện lên. Không phải nhọc công tốn sức mà có nước trong. Năng lực nhiếp thọ của Phật cũng vậy, chúng ta không cần lo lắng hết vọng tưởng hay còn vọng tướng mới được vãng sanh. Niệm Phật không cần khai ngộ,  không cần tâm thanh tịnh, không cần hết vọng tưởng, mà vẫn được vãng sanh. Tin chắc như thế, phải có tư tưởng như thế, thì chắc chắn sẽ vãng sanh, chắc Phật A Di Đà sẽ tiếp thọ ta không chút nghi ngờ.

{]{

CƠ VÀ PHÁP Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét