Thứ Sáu, 11 tháng 10, 2024

NÉT ĐẶC SẮC TRONG TƯ TƯỞNG TỊNH ĐỘ CỦA ĐẠI SƯ THIỆN ĐẠO

 


NÉT ĐẶC SẮC TRONG TƯ TƯỞNG TỊNH ĐỘ

CỦA ĐẠI SƯ THIỆN ĐẠO

Tóm tắc có  6 điểm:

1/- Đứng trên lập trường bản nguyện của Phật A Di Đà

Nhiều người giải thích pháp môn Tịnh độ, nhưng không đứng trên quan điểm của Tịnh độ, lại dựa theo quan điểm tâm tính của chúng sanh. Quan điểm bất đồng, phương pháp hạ thủ công phu cũng khác nhau, sẽ nảy sinh ra phân chia khó hay dễ.

Đứng trên quan điểm tâm tính của chúng sanh họ  nói rằng; “Tâm tánh chúng sanh xưa nay vốn thanh tịnh, đầy đủ đức tướng Như Lai, xưa nay đầy đủ công đức, nhưng bị vọng tưởng che lấp. Nguyên tắc tu hành là làm cho rơi rụng những vọng tưởng, thì ánh sáng Tự tánh vốn đầy đủ sẽ hiện ra. Ví như mặt trời ra khỏi mây mù. Dẹp trừ được phiền não thì Phật tánh hiển hiện, tâm địa sẽ tự nhiên sáng rỡ”.

Nếu đứng ở lập trường trên, hướng tu trì sẽ không giống nhau. Họ niệm Nam mô A Di Đà Phật là để dẹp trừ vọng tưởng tạp niệm, lấy niệm Phật làm phương tiện, mục đích là cầu khai ngộ, đoạn trừ phiền não. Đó là pháp môn tự lực, chẳng phải là pháp môn nương vào sức cứu độ của Phật A Di Đà. (pháp này ảnh hưởng Thiền tông).

Đứng trên lập trường tâm tính chúng sanh, họ giải thích rất huyền diệu: “Vì tâm tánh chúng sanh cùng với chư Phật, bồ tát bình đẳng không hai, chưa từng có một kẽ hở. Mười vạn ức cõi Phật ở Tây phương, rốt cuộc cũng không ra ngoài tâm tính của ta”. Tuy trên mặt văn tự, chúng ta vẫn có thể hiểu, nhưng chưa thể cảm nhận thấu đáo được.

Chẳng hạn nói: “Mười vạn ức cõi Phật nằm trong một niệm tâm tánh ta”,  nhưng cái gì là  “trong một niệm tâm tánh”?  “Tâm tánh” này ý chỉ cho chân tâm, chân tánh của chúng ta, chứ chẳng phải chỉ cho tâm vọng tưởng. Chúng ta ngày ngày vùi trong vọng tưởng, mỗi lúc đều hành theo vọng tâm; vì chưa đạt được nhất niệm chân tâm, nên tuy nói là bên trong tâm tính, mà kết quả là thấy bên ngoài tâm tính. Đạo lý huyền diệu này khi đem ra giải thích, thì hạng phàm phu như chúng ta thật sự nghe mà để nghe vậy thôi, chứ chẳng khế hợp nổi.

Vọng tưởng tạp niệm, tự bản thân nó không có căn nguyên, vì chúng ta chấp trước, lấy một niệm chấp tâm làm căn bản, nên nó trở thành gốc rễ. Bạn chấp trước nó, nó liền khiến bạn điên đảo, khiến cho bạn luân hồi, khiến cho bạn sa đoạ.

Muốn không chấp trước vọng tưởng, có hai cách:

Cách thứ nhất: Đại triệt đại ngộ, phá ngã chấp và pháp chấp, không vướng mắc, không ngăn ngại, pháp tánh vốn không, như vậy vọng tưởng sẽ không có cách nào khởi tác dụng. Vì vậy, cổ đức có câu:

Tội chướng tựa hồ như sương móc,

Mặt trời trí tuệ hay tiêu trừ

Trí tuệ của chân tánh một phen sinh khởi, tất cả tội chướng ngay đó trở thành không.

Nhưng đối với chúng ta, cách này khó quá!  Chúng ta khởi tâm động niệm đều là “Tôi”, mỗi niệm đều do sức cái “Tôi”.  Dở chân cất bước là “Tôi đi”, há miệng ngậm miệng là “Tôi ăn cơm” “Tôi nói”, ngon hoặc dở là “Tôi biết”… Thậm chí nghe pháp cũng là “Tôi đang nghe pháp”. Tất cả đều đang vun bồi cho cái  “ngã”, có bao giờ rời khỏi cái “ngã” đâu!

Cách thứ hai:  Dùng phương pháp hoán đổi vị trí: “Tuy chúng ta là phàm phu đầy dẫy vọng tưởng, chẳng cách nào loại trừ chúng được, nên ta mặc kệ, không cần chú ý đến nó, chỉ ghi nhớ sáu chữ danh hiệu mà thôi”. Như vậy, gốc rễ của vọng tưởng mặc nhiên không tồn tại nữa, rất đơn giản, bạn không cần phải kìm kẹp buộc nó buông xuống. Ví như có một người đến nhà thăm bạn, mà bạn không hỏi không nói chuyện với họ, mà bạn lại chú ý nói với một người khác, người kia thấy bạn không quan tâm chắc trước sau họ cũng về thôi, bạn không cần đuổi mà họ sẽ về.

Trong Kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật dạy: “Danh hiệu của đức Phật A Di Đà có khả năng cắt đứt gốc rễ sanh tử của chúng sanh, gốc rễ sanh tử là một niệm vọng tâm. Do một niệm vọng tâm này, chúng ta sẽ nảy sinh ra rất nhiều lo âu”.  “Tôi còn nhiều tội chướng, còn nhiều tham sân, nhiều vọng tưởng, phải làm sao đây?. Tới lui gì cũng Tôi cả. Nay chúng ta đem tất cả bỏ vào biển đại nguyện của đức Phật A Di Đà, không quan tâm đến nó nữa! Hết thảy đều giao phó cho đức Phật: “Đức Phật A Di Đà đã gánh vác  giúp vô lượng vô biên nghiệp chướng của con, con là phàm phu tội chướng, con xin hoàn toàn phó thác vào Ngài”. Khi chúng ta xưng niệm câu danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật, gốc rễ sanh tử ngay đó được nhổ bỏ. Dễ dàng như vậy, cho nên gọi là dị hành đạo. Song, về điểm này vẫn có người bị chướng ngại, họ chẳng an lòng giao phó cho đức Phật, mà phải chính tay mình nắm thì mới yên tâm. Có người lại hỏi: “thưa sư phụ, lâu nay con vẫn thường niệm Nam mô A Di Đà Phật, mà sao con chưa cảm nhận được gì hết vậy?”. Vì họ đòi hỏi bản thân phải cảm nhận được gì đó, nên lại thấy chưa thể yên tâm.

Niệm “Nam mô A Di Đà Phât; vốn dĩ siêu việt nói năng suy nghĩ, không cần phải cảm thấy như thế nào. Chúng ta chỉ một lòng cung kính chí thành tin tưởng lời đức Phật dạy, chẳng chút nghi ngờ. Vì đức Phật A Di Đà chẳng lừa dối chúng sanh, đức Phật A Di Đà vì chúng ta mà phát nguyện, bạn niệm Phật thì được vãng sanh.

Trước khi đức Phật A Di Đà thành Phật, được gọi là Bồ tát Pháp Tạng, Ngài phát 48 đại nguyện, trong đó, nguyện thứ 18, Ngài lập thệ: “Nếu Pháp Tạng tôi thành Phật, tất cả chúng sanh trong 10 phương, không luận nam hay nữ nhân, già trẻ lớn bé, hữu trí vô trí, xuất gia tại gia, có tu hành hay chẳng tu hành… chỉ cần xưng danh hiệu Tôi, xưng niệm Nam mô A Di Đà Phật, nguyện sanh về cõi nước của Tôi, tin thuận không nghi ngờ, Tôi sẽ giúp cho họ được vãng sanh, danh hiệu của Tôi có đầy đủ sức công đức như thế. Nếu Tôi không được như nguyện, Tôi sẽ không thành Phật mà tiếp tục tu hành; cho đến chẳng luận đó là hạng chúng sanh nào, dù là con chim hay con kiến, chỉ cần chúng muốn, thì đều được vãng sanh”.

 

 

2- Hướng về phàm phu tội chướng.

  Tư tưởng Tịnh Độ của Đại sư Thiện Đạo, đối tượng được tiếp độ chính là hàng phàm phu tội ác, chứ không phải hàng thánh nhân phước thiện. Nếu đòi hỏi: “Bạn phải tu phước nghiệp, bạn phải hành thiện pháp, bạn phải viên mãn giới, định, huệ, chứng thánh quả” đem những thứ này làm tiêu chuẩn để giải thoát sanh tử, thì chúng ta không có chút hy vọng nào.

Tư tưởng Tịnh Độ của đại sư Thiện Đạo thì không đòi hỏi cao như thế, vì đứng trên phương diện bản nguyện cứu độ của đức Phật A Di Đà, nên dù đức Phật (Thích Ca) còn tại thế, hay đã diệt độ, tất cả phàm phu tội chướng đều là đối tượng được cứu độ.

3- Phương pháp thực hành dễ dàng lại thù thắng

Đứng trên lập trường bản nguyện cứu độ của đức Phật A Di Đà, phương pháp thực hành rất đơn giản. Trong nguyện thứ 18, đưc Phật A Di Đà chỉ nói một điều: “Ông niệm danh hiệu của Tôi thì được vãng sanh”. Thệ nguyện của Ngài không hề có chút phứt tạp nào.

Nếu lấy phương pháp tụng đọc để được vãng sanh thì sẽ sinh ra nhiều chướng ngại, chẳng hạng như không có Kinh, thì không thể tụng, người không biết chữ cũng không thể tụng, người khiếm thị cũng không thể tụng, không có thời gian cũng không thể tụng, rốt cuộc thì không có phần vãng sanh.

Bất luận phương pháp nào, trừ pháp niệm Phật ra, cũng đều có sự hạn chế, cho nên sự cứu độ không được rộng khắp. Còn danh hiệu của Phật thì người nào cũng có thể niệm được cả, không hề đòi hỏi người chưa xuất gia thì không thể niệm, bạn cứ giữ thân phận tại gia mà niệm, cũng được vãng sanh, bạn chẳng thể ngồi xếp bằng, thì cứ ngồi duỗi chân ra mà niệm, cũng được vãng sanh; bạn đau không thể ngồi, thì cứ nằm mà niệm, cũng được vãng sanh; bạn không biết chữ thì cứ một lòng niệm Phật, cũng được vãng sanh.

Câu danh hiệu Phật, ngoài việc dễ dàng, còn có vô lượng công đức rất thù thắng nữa. Đức Phật A Di Đà muốn cứu độ tất cả chúng ta, Ngài không trao cho chúng ta quả vị A la hán, cũng chẳng cho chúng ta quả vị Bồ tát. Đức Phật rất từ bi, bản hoài của Phật là muốn cho tất cả chúng sanh thành Phật. Phật A Di Đà  thành Phật rồi, Ngài muốn cứu độ chúng ta đến thế giới Cực lạc, là muốn chúng ta thành Phật.

Sáu chữ danh hiệu đã hoàn toàn đầy đủ tất cả công đức để chúng sanh thành Phật. Đức Phật A Di Đà, dùng sáu chữ danh hiệu là đem tất cả công đức của Ngài trao tặng miễn phí cho chúng ta. Giống như cha mẹ đem gia tài vạn ức, giành dụm suốt một đời, gôm trong một tờ ngân phiếu nhỏ, trao cho con. Công đức tu hành  trăm ngàn vạn kiếp, tất cả công đức, cô đọng trong sáu chữ danh hiệu, trao hết cho chúng ta, giúp chúng ta thoát khỏi luân hồi trong ba cõi sáu đường, chứng nhập quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Câu danh hiệu A Di Đà là công đức viên mãn đức Phật ban cho chúng ta.

Có nhiều người không hiểu hết công đức của sáu chữ hồng danh, nên lại chấp trước nói rằng: Không bố thí, không làm lành, thì những người chỉ niệm không, thì làm sao vãng sanh? Phải tu thiện tích đức như tôi mới có thể vãng sanh. Thật ra là một sự hiểu biết sai lầm, vì chưa hiểu thấu suốt bản nguyện của Phật A Di Đà, cũng không hiểu rõ câu danh hiệu chính là công đức viên mãn nhất. Nên đem cái hạnh bố thí làm lành để  hồi hướng  cầu vãng sanh. Không biết rằng cái hạnh ấy đều tách rời bản hoài đức đại bi của  Phật A Di Đà. Nếu tu theo cách này thì rất khó vãng sanh. Nên vừa làm thiện tích đức vừa niệm Phật cầu vãng sanh thì sẽ được vãng sanh, nếu làm thiện mà không niệm Phật cầu vãng sanh thì khó được vãng sanh.

4- Siêu sanh Cực lạc Báo độ.

Có nhiều người quan niệm rằng, chỉ chuyên niệm danh hiệu Phật đức Phật A Di Đà, tuy có thể vãng sanh, nhưng phước đức ít, vãng sanh ở quả vị thấp. Vì thế, ngoài việc niệm Phật, còn phải đọc tụng Kinh điển như Kim Cang, Pháp Hoa .v..v… thì mới tăng thêm công đức cho câu danh hiệu Phật. Đây là một quan niệm sai lầm, câu Phật hiệu A Di Đà Phật, chứa đủ ba nghĩa: Vô lượng quang, Vô lượng thọ và Vô lượng công đức, thông khắp mười phương chư Phật. Trong sáu chữ danh hiệu đều có đủ tất cả Kinh chú, tất cả pháp môn, tất cả Phật, tất cả Bồ tát. Nếu ta thấy câu Phật hiệu sáu chữ chưa đủ, thì tâm chúng ta xen tạp rồi, tín tâm với câu Phật hiệu chưa sâu. Tạp lại không chuyên, không thuần nhất, thì sự tin tưởng và ngưỡng mộ không sâu sắc. Vì hiểu không rõ, trong lòng còn hoài nghi, nên việc vãng sanh cũng không chắc chắn. Vì thế người chuyên tâm niệm Phật, sẽ vãng sanh về Báo độ của Phật A Di Đà, chứ không phải Hoá độ như tông Thiên Thai quy định.

5- Thành tựu việc vãng sanh ngay hiện đời.

 Hành giả niệm Phật cầu vãng sanh, phải hiểu rõ nghĩa từ vãng sanh. Vãng sanh là một sự chuyển hoá tâm lý vật lý của hành giả, khi thực tập công phu niệm Phật có đủ năng lượng, có công năng, thì sẽ có kết quả tốt. Vì thế, vãng sanh có hai trạng thái đó là: Hiện tiền vãng sanh và lâm chung vãng sanh. Lúc còn mạnh khoẻ niệm Phật thuần thục sẽ có công năng chuyển hoá, đây gọi là “Bình sanh nghiệp thành” hay gọi là “hiện tiền vãng sanh”. Có ba ý nghĩa: a/ Chuyển hoá vãng sanh, b/ Tĩnh thức vãng sanh, c/ Buông xả vãng sanh.

a/ Chuyển hoá vãng sanh: Tức là khi niệm Phật có năng lượng rồi, hành giả sẽ thấy có sự thay đổi trong cuộc sống, như bệnh tật chuyển hoá hết bệnh, nghèo túng chuyển thành đầy đủ, hung bạo chuyển sang hiền lành .v..v… chuyển vô minh thành quang minh, chuyển tham sân thành vô tham vô sân, chuyển tạp niệm thành chánh niệm, chuyển phàm thành thánh .v..v... chuyển thức tâm thành thánh trí, chuyển viên tâm thành định tâm, chuyển cấu tâm, nhiễm tâm thành tịnh tâm. Như vậy, chuyển mê thành ngộ, chuyển thức thành trí, chuyển loạn thành định, chuyển nhiễm thành tịnh.

Ta vẫn là ta, lợi danh hư vọng có chi màng

Nhứt niệm quay về nơi tự tánh

Chơn như bình đẳng thể hằng an.

b/ Tỉnh thức vãng sanh: Là không còn mê lầm đối với ngũ trần, ngũ dục. Xem phú quý như phù du, coi công danh như bột nổi, cho nên vô cầu, vô dục, an bần thủ đạo.

c/Buông xả vãng sanh: Tức là không chấp trước, không thủ chấp, không buộc chặt. Đã thức tỉnh và chuyển hoá rồi thì đã có sự buông xả. Đã vô cầu vô dục thì đã có sự buông xả, nhờ có sự thức tỉnh và chuyển hoá nên vô cầu vô dục, đối với mọi sự mọi vật không đem tâm đắm nhiểm. Buông xả như hạnh của Ngài Di Lặc.

Bụng lớn năng dung, dung những điều khó dung trong thiên hạ. Lòng từ thường xả, xả những điều khó xả ở thế gian.

Xả bậc thượng: Chứng nhập chân như, sạch hết phiền nào không còn phân biệt.

Xả bậc trung: Làm tất cả mà không mong cầu đền đáp, không kể công, không cần đền trả.

Xả bậc hạ: Làm nhưng không còn dính mắc.

    Nguyên lai hai chữ vãng sanh

    Hành nhân nếu muốn tạo thành nguyện đây

    Vãng sanh hiện tại cõi nầy

    Phàm tâm chuyển hoá hiển bày thánh tâm

    Ngày đêm thức tỉnh chớ lầm

    Nương danh hiệu Phật diệt mầm vô minh

    Vãng sanh tạp tưởng vọng tình tiêu tang

   Về nơi cảnh tịnh tánh linh rạng ngời

   Vãng sanh ý nguyện tuyệt vời

   Chúc cho đại chúng hiện đời bình an

   Lâm chung cảnh tịnh huy hoàng

  Tây phương Cực Lạc hiện tiền vãng sanh.

Có người niệm Phật mà không muốn cầu vãng sanh, vì họ quan niệm vãng sanh là chết. Ở đây vãng sanh không có nghĩa là chết mà là chuyển hoá của nội tâm là sự thức tỉnh của tâm là sự buông xả của tâm. Ai niệm Phật có được ba yếu tố trên, người đó là đại hạnh phúc, đại an lạc ở hiện tại và mai sau. Ước nguyện vãng sanh, cầu mong vãng sanh là cầu sự bình an, sự sung túc trong hiện tại và sự siêu thoát trong tương lai. Cầu vãng sanh không phải cầu chết mà nó hàm tàng ý nghĩa sống tốt đẹp trong hiện tại. Vì thế niệm Phật cầu vãng sanh tuy một mục đích mà có nhiều ý nghĩa hiện tại và tương lai, cho nên không nên e dè sợ sệt mà không mong cầu vãng sanh, không phát nguyện vãng sanh. 

Lâm chung vãng sanh: Đến lúc gần chết mới phát khởi tín tâm niệm Phật, niệm tha thiết chí thành, lúc lâm chung có triệu chứng tốt gọi là lâm chung vãng sanh, còn gọi “Lâm chung nghiệp thành”. Hoặc lúc sinh thời chuyên tâm niệm Phật cầu vãng sanh, đến lúc lâm chung, có những thoại tướng tốt. Như thân không bịnh, tâm không tán loạn, ý không điên đảo, biết trước giờ chết, nhẹ nhàng ra đi, thân không bị bệnh hành hạ. Sau khi tắt hơi thở, thân thể mềm mại, tươi tỉnh không đổi sắc, thân tướng tươi nhuận, như người nằm ngủ. Những thoại tướng như thế gọi là lâm chung vãng sanh.

6- Một đời bất thối:

Tu tập theo pháp môn niệm phật gọi là pháp môn trực chỉ, tức là một hướng đi thẳng không còn quay lại, chỉ trong một đời này sẽ được vãng sanh. Đã vãng sanh thì thẳng đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, không còn thối đoạ làm phàm phu nữa. Tu các pháp khác hay thối thất, vì tự lực, nếu không đủ phước đức và trí huệ thì hay gặp nhiều chướng nạn trên bước đường hành đạo, nên gọi là thối đoạ. Đời này tu chưa thành, quay lại đời sau tu tiếp, phải trải qua nhiều kiếp tu mới hoàn thành. Còn pháp tu niệm Phật chỉ trong một đời nay là xong, lên Cực lạc được các bậc Thượng thiện nhân hướng dẫn tu tiếp, gặp toàn thiện tri thức nên việc tấn tu không có thối đoạ là vậy.

Tổng kết các ý trên:

1/ Quan điểm bản nguyện của đức Phật A Di Đà là đặt nơi lời thệ nguyện không hư dối, bạn có thể tín thuận liền có thể vãng sanh, còn bạn hoài nghi, không chuyên tu niệm Phật, sự vãng sanh sẽ không chắc chắn.

2/ Phương diện phàm phu tội chướng sâu dày, vọng tưởng đa đoan, phiền não sâu nặng. Chính là tâm điểm của chúng sanh  có tư cách để được Phật cứu độ. Ví như,  người khốn cùng bần khổ, là người có tư cách được nhận lương thực cứu tế.  Người bệnh nặng là người có tư cách được bác sĩ chăm sóc chữa trị.

3/ Chuyên tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà, chuyên nhất đến cùng không lơ là, hiện tại được giải thoát an lạc, lúc lâm chung được vãng sanh, gọi là hiện tiền vãng sanh và lâm chung vãng sanh.

4/ Khi đã đầy đủ hai tiêu chuẩn hiện tiền vãng sanh và lâm chung vãng sanh, thì nhất định không còn thối đoạ, mà thẳng tiến cõi Cực lạc, không qua cấp bậc nào.

5/ Khi niệm phật đủ ba phần, tin sâu, nguyện thiết hành chuyên, thì ngay trong cuộc sống hiện tại đã đạt trạng thái hiện tiền vãng sanh, không đợi đến lúc lâm chung.

6/ Hiện đời niệm Phật không lui sụt, chắc chắn sẽ vãng sanh, chứng đạt Niết bàn không còn nghi ngờ nữa./.                           

{]{

NÉT ĐẶC SẮC TRONG TƯ TƯỞNG TỊNH ĐỘ CỦA ĐẠI SƯ THIỆN ĐẠO Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét