TƯ TƯỞNG
Nhân tố chính yếu, đến từ tư
tưởng trong tâm chúng ta. Tư tưởng thiện ác, quán nhân duyên trong Đại thừa Phật
pháp, nhấn mạnh nên quán tánh pháp giới, tất cả do tâm tạo. Chúng ta đời này sở
dĩ phú quý, vì trong quá khứ có tư tưởng bố thí; sở dĩ nghèo cùng, bởi vì trong
quá khứ có tư tưởng tham lam, ưa thích tự mình chiếm giữ của cải; sở dĩ trang
nghiêm, bởi vì trong quá khứ có tư tưởng nhẫn nại. Vì vậy, tư tưởng của chúng
ta ảnh hưởng sâu sắc đến phương hướng của sự sống.
Dòng chảy sự sống của phàm
phu có một điểm rất đặc biệt, chính là nó có một loại “tính đẳng lưu”, có năng
lực của tính thói quên. Nếu như chúng ta không học Phật, sự sống của chúng ta
không thể nào thay đổi được. Trong kinh có giảng đến rất nhiều người đời trước
thích nghĩ gì, thì đời nay vẫn tiếp tục sanh khởi suy nghĩ như vậy. Đời trước
mình có tập khí tham lam, đời nay vẫn tham lam. Đời trước họ thích bố thí, đời
nay vẫn vậy thích bố thí v.v.. Dòng chảy này có một loại năng lực giống nhau,
cho đến một ngày gặp được Phật pháp, sự sống của chúng ta mới có thể thay đổi
thực sự.
Vì vậy, phương pháp duy nhất
để thay đổi sự sống, chính là thay đổi tư tưởng chính mình.
Nhưng sau khi học Phật, những
tư tưởng giống nhau của chúng ta trong quá khứ bắt đầu thay đổi, sanh ra một
năng lực giác ngộ. Lúc này chân vọng công kích lẫn nhau, có một số việc chúng
ta thích làm, có một việc chúng ta nên làm, thích làm gì thì làm. Đó là tập khí
quá khứ, nên làm thì là một loại quán chiếu trí tuệ. Nếu như từ “tôi thích” làm
gì, nâng cao lên “tôi nên” làm gì, thì sự sống chúng ta bắt đầu có tiến bộ, cho
nên , chúng ta buộc phải làm mạnh thêm sức quán chiếu trí tuệ.
Ta quyết định nói với mình rằng,
bây giờ không thích đi lạy Phật, nhưng tôi phát nguyện ép bắt phải lạy Phật. Tu
hành chính là không ngừng kháng cự lại những tập khí trong quá khứ, chuyển biến
và kháng cự lại tập khí đẳng lưu còn lưu lại trong quá khứ của mình. Quan điểm
của Tịnh Độ, chướng ngại lớn nhất với sự vãng sanh của chúng ta là gì?
Chướng ngại lớn nhất trong
tâm của chúng ta là “tham luyến Ta bà”, vì thế bản nguyện của Phật A Di Đà là
nhiếp trì tất cả chúng sanh, câu danh hiệu Phật đã nhiếp trì tất cả công đức
vào đó. Khiến chúng ta nhớ nghĩ, chúng ta luôn nhớ nghĩ danh hiệu Phật, thì chướng
ngại “tham luyến Ta bà” sẽ chấm dứt, ái không nặng thì không sanh Ta bà. Chuyển
tư tưởng tham luyến Ta bà thành tư tưởng vui cầu sanh Tịnh Độ. Nếu tư tưởng
không thay đổi thì chúng ta niệm Phật không thể vãng sanh. Vì tất cả pháp môn
nào cũng đều không thể phủ định đạo lý các pháp nhân duyên sanh, Tịnh Độ cũng
không nằm ngoài.
Nếu không thay đổi tư tưởng,
mà được vãng sanh, tức biểu thị các pháp là “tha sanh” xa lìa nhất tâm niệm
này, còn có một cái chủ đạo bên ngoài đang khống chế sự sống chúng ta. Điều này
giống với tư tưởng của Thượng đế rồi, cảm ứng đạo giao của ngoại đạo là phan
duyên bên ngoài, sự sống của chúng ta là người quyết định. Mình sanh lên trời
hay đoạ vào địa ngục là do người khác quyết định. Các pháp tha sanh, tín đồ Phật
giáo không có tư tưởng như vậy, ngoại đạo mới có như vậy.
Phật pháp dạy chúng ta các
pháp nhân duyên sanh, đây là một điểm nhận thức chung cho tất cả tông phái Phật
giáo. Nhân duyên này là gì? Chính là tư tưởng của mình, phải làm sao chuyển đổi
tư tưởng của mình ? Phải sanh ba loại
quán chiếu:
-
Quán chiếu chân như – quán chiếu công đức danh hiệu- quán chiếu Tịnh Độ
trang nghiêm.
Quán chiếu chơn như, nhớ biết
tự tánh vốn thanh tịnh. Quán chiếu công đức danh hiệu, để sanh khởi “tín nguyện”quyết
định vãng sanh. Quán chiếu Tịnh Độ trang nghiêm, khởi tâm nhàm chán uế độ ưa
thích Tịnh Độ.
Quán chiếu về uế độ: Ở đời hết thảy đều chẳng vui, tất cả đều chẳng
phải hạnh phúc chân thật. Chúng ta thấy quá trình truy cầu rất vất vã, lúc có
được thì lo âu sợ hãi, khi mất thì ưu phiền. Đời người chẳng có chi là hạnh
phúc chân thật cả. Bởi vì mỗi niềm vui có được đều hổn tạp rất nhiều chướng ngại.
Thế giới Cực Lạc thì không
giống cõi ta bà, Phật A Di Đà nhìn thấy được vấn đề này, biết chúng sanh mong cầu
y phục, thức ăn, không những lãng phí rất nhiều thời gian, mà còn khiến tâm tư
rất nhọc nhằn lo lắng khiếp sợ. Cho nên Phật A Di Đà bèn thiết lập cõi nước của Ngài gọi là “Tự nhiên trên
thân”, chúng ta không cần truy cầu, sẽ không sanh chấp trước, nghĩ đến thức ăn
thì liền có thức ăn, nghĩ đến y phục liền có y phục .v.v… Như thế, sẽ giảm đi rất
nhiều khởi tâm động niệm. Đây gọi là y thực tự nhiên.
Thế giới Cực Lạc Phật A Di
Đà chu cấp đồ ăn thức uống, chỗ ở đầy đủ cho chúng ta, khiến cho thân tâm có rất nhiều an lạc, những loại an lạc này sẽ
không làm mình sanh ra phiền não, mà một loại an lạc tịch tĩnh.
Ở thế gian, nếu chúng ta muốn
khoái lạc thì liền phóng dật, muốn tìm cầu khoái lạc thì phải từ bỏ giải thoát.
Muốn giải thoát thì phải giảm thiểu ăn uống, ngủ nghỉ, từ bỏ khoái lạc. Bởi vì
chúng ta chạy theo khoái lạc thì nhất định sẽ phóng dật. Một khi chúng ta phóng
dật, thì chẳng có cách gì nhiếp thọ sáu căn, chẳng thể nào tu hành được. Chỉ có
ở Cực Lạc nơi kết hợp đạo an lạc và đạo giải thoát cùng nhau, có thể khiến cho
chúng ta ở trong an lạc mà mỗi niệm có thể niệm Phật, niệm pháp niệm Tăng. Điều
này đặc biệt, ở thế giới Ta bà không có làm được.
Ở Cực Lạc con người thân tâm
đều an lạc, có thể an ổn mà tu đạo, đây gọi là thân tâm an lạc, nghĩa là thế giới
thân tâm không có chướng ngại về sanh, già, bệnh, chết, mà ở trong tâm luôn duy
trì được một loại an lạc ổn định.
Thế giới Cực lạc không có ba
đường ác, chỗ ở đều do bảy báu tạo thành, thường phóng quang minh, y thực tự
nhiên, thân tâm an lạc.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét