Thứ Hai, 7 tháng 11, 2016

PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRONG VAI TRÒ DỰNG NƯỚC

PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRONG VAI TRÒ DỰNG NƯỚC


Đại sư Khuông Việt ngoài nhiệm vụ đối với Giáo hội, đã giúp vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành trong việc trị nước, an dân. 30 năm Đại sư Khuông Việt đã phục vụ trong chính quyền của vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành và đã thể hiện tài năng nhiều mặt của mình. Không chỉ trong lĩnh vực sinh hoạt Phật giáo, mà cả trong lĩnh vực chính trị và ngoại giao. Điều này chứng tỏ nền giáo dục và Phật giáo Việt Nam lúc ấy đã thực hiện tốt chức năng đào tạo những người tri thức có khả năng không chỉ việc đạo mà cả việc nước việc dân.
Chính trong thế kỹ này, đạo Phật đã tích cực đóng góp vào việc dựng nước. Năm 971, vua Đinh Tiên Hoàng, định giai cấp cho Tăng sĩ và ban chức Tăng thống cho Ngô Chân Lưu của thiền phái Vô Ngôn Thông, cho ông hiệu Khuôn Việt Thái sư, chính thức nhận Phật giáo làm nguyên tắc chĩ đạo tâm linh cho chính sự. Cũng chính trong chính sự này mà vua Lê Đại Hành mời Thiền sư Pháp Thuận và Thiền sư Vạn Hạnh của Thiền phái Tỳ Ny Đa Lưu Chi làm cố vấn và Vạn Hạnh cũng đã tiếp tục giúp vua Lý Thái Tổ trong thế kỷ tiếp.
---------—]–-------
PHẬT GIÁO THỜI TIỀN LÊ (980 - 1009)
Sau khi lên ngôi Lê Đại Hành sai sứ sang Trung Quốc dâng tặng phẩm và thỉnh Đại Tạng Kinh. Vua thường mời Đại sư Khuông Việt và Pháp Thuận vào triều để tham vấn việc nước.
Các Thiền sư Khuông Việt, Pháp Thuận, Vạn Hạnh tham sự chính sự mà không tham dự chính quyền, vì họ không nhận một chức vụ nào trong nội các, chỉ tới giúp ý kiến rồi về chùa.
Có 4 lí do để các Thiền sư tham dự vào việc triều chính như sau :
1/ Thứ nhất họ là những người có học, có ý thức về quốc gia, sống gần gũi quần chúng và biết được những khổ đau của nhân dân.
2/ Họ không có ý tranh đoạt ngôi vua, tranh giành quyền binh và địa vị ngoài đời nên vua tin họ.
3/ Họ không cố chấp vào thuyết trung quân (chỉ biết giúp ông vua mà thôi) như các nhà nho, nên họ có thể cộng tác bất kỳ ông vua nào có thể đem lại phúc lợi cho dân.
4/ Các vua cần sở học của họ, nhất là trong các đời Đinh, Lê (các vua đều không thuộc giới tri thức). Nho sĩ thì không mấy người, mà lại chỉ trung thành với một triều đại.

PHẬT GIÁO ĐỜI LÝ (1010 - 1225)
Niên đại lịch sử quan trọng
Nhà Lý (1010 - 1225), kinh đô Hoa Lư, năm 1010 dời về Thăng Long năm 1054, đổi quốc hiệu là Đại Việt.
1/ Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) 1010 - 1028
2/ Lý Thái Tông (Lý Phật Mã) 1028 - 1054
                                   (Danh nhân thời Lý):
3/ Lý Thánh Tông (Lý Nhật Tôn) 1054 - 1072
                                    Nguyên  Phi Ỷ Lan
4/ Lý Nhân Tông (Lý Càn Đức) 1072 - 1127
                                     Lý Thường Kiệt
5/ Lý Thần Tông (Lý Dương Hoán) 1128 - 1138
                                     Lê Phụng Hiếu
6/ Lý Anh Tông (Lý Thiên Tộ) 1138 - 1175
                                     Tô Hiến Thành
7/ Lý Cao Tông (Lý Long Cán 1176 - 1210)
8/ Lý Huệ Tông (Lý Hạo Sảm) 1211 - 1224
9/ Lý Thiên Hoàng (Phật Kim) 1224 - 1225

Những chức vụ trong hệ thống tổ chức giáo hội liên quan đến chính quyền và xã hội chứ không liên quan đến đến đời sống tu viện như Hòa thượng Thượng Tọa, Yết Ma, Giáo thọ, Giám viện, Trụ trì, …
Các chức vụ như Tăng thống, Tăng lục, Tăng chính là những chức vụ trong hệ thống tổ chức giáo hội liên quan đến chính quyền và xã hội.
Những vị tăng sĩ lãnh đạo tinh thần cho triều đình, cho quốc gia gọi là Quốc sư, không có nghĩa là cố vấn chính trị cho vua mà chỉ là bậc thầy dạy đạo, vị lãnh đạo tâm linh.
Về tu viện, ngoài những ngôi chùa do vua quan lập ra còn nhiều ngôi chùa do dân chúng xây dựng. Chùa được phân làm 3 loại :
1/ Đại danh lam; chùa lớn
2/ Trung danh lam; chùa vừa vừa
3/ Tiểu danh lam; chùa nhỏ
---------—]–-------
PHẬT GIÁO ĐỜI TRẦN (1225 - 1400)
Quốc hiệu Đại Việt, kinh đô Thăng Long
Niên đại lịch sử quan trọng
Nhà Trần (1225 - 1400)
1/ Trần Thái Tông (Trần Cảnh  1225 - 1258)
Danh nhân thời Trần chống quân Mông Cổ lần I (1258), Quốc mẫu 
Trần Thị Dung.
2/ Trần Thánh Tông (Trần Hoàng 1258 - 1278)
Thái sư Trần Thủ Độ
3/ Trần Nhân Tông (Trần Khâm 1279 - 1293)
Hưng Đạo Vương chống quân Mông lần II (1285).
Trần Quốc Tuấn chống quân Mông lần III (1288).
Thượng tướng Thiền sư Trần Quang Khải.
4/ Trần Anh Tông (Trần Thuyên 1293- 1314)
5/ Trần Minh Tông (Trần Mạnh 1314 - 1329)
Đại Vương Trần Nhật Duật
6/ Trần Hiến Tông (Trần Vượng 1329 - 1341)
Huệ vương Trần Khánh Dư
7/ Trần Dụ Tông (Trần Hạo 1341 - 1369)
Trần Bình Trọng, Dương Nhật Lễ, Trần Quốc Toản
8/ Trần Nghệ Tông (Trần Phú 1370 - 1373)
Phạm Ngũ Lão
9/ Trần Duệ Tông (Trần Kính 1373 - 1377)
Nguyễn Chế Nghĩa
10/ Trần Phế Đế (Trần Hiện 1377 - 1388)
Lê Văn Hưu
11/ Trần Thuận Tông (Trần Ngung 1388 - 1398)
Chu Văn An
12/ Trần Thiếu Đế (Trần Án 1398 - 1400)
Lý Chiêu Thánh truyền ngôi cho chồng là Trần Cảnh, tức Trần Thái Tông lúc mới 8 tuổi, mọi việc trong triều đều có Thái sư Trần Thủ Độ thu xếp. Năm 1237, lúc Thái Tông 20 tuổi bị Trần Thủ Độ ép bỏ Chiêu Thánh lấy chị dâu vợ Trần Liễu, lúc đó đã mang thai 3 tháng, với mục đích có con nối dõi, nên đang đêm đã rời hoàng cung đến chùa Phù Vân núi Yên Tử xin Phù Vân quốc sư cho ở lại tu học. Trần Thủ Độ hay tin liền đem quân thần đến rước Thái Tông về triều.
Năm 1258 Thái Tông nhường ngôi cho con là thái tử Trần Hoàng, tức Thánh Tông và Ngài lên ngôi Thái Thượng Hoàng để cùng lo việc nước. Năm 1277, Thái Thượng Hoàng băng hà, thọ 60 tuổi, trị vì 33 năm, làm Thái thượng hoàng 19 năm. Ngài là tác giả các cuốn:
- Thiền Tông Chỉ Nam: Trình bày đạo lý thiền và phương pháp hành thiền.
- Kim Cang Tam Muội kinh chú giải.
- Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi.
- Thái Tông Thi Tập.
- Bình Đẳng Lễ Sám Văn.
- Khóa Thi Lục: Trình bày đạo lý, sanh, lão, bệnh, tử, phá trừ thành kiến, cố chấp. Được soạn sau khi Thái Tông nhường ngôi, vào núi tu hành. Sách chia làm 3 phần. Ở phần cuối, Thái Tông kết hợp tu thiền và tịnh. Thái Tông viết
“Lễ Phật giả kính Phật chi đức
Niệm Phật giả, cảm Phật chi ân
Trì giới giả, hành Phật chi hạnh
Khán kinh giả, minh Phật chi lý
Tọa thiền giả, đạt Phật chi cảnh
Tham thiền giả, hợp Phật chi tâm
Thuyết pháp giả, mãn Phật chi nguyện”.
       Năm 1460, vua Lê Thánh Tông sắc cấm tăng sĩ không được qua lại với dân trong thành, không được giao thiệp với dân. Vào thời kỳ này không có vị cao tăng nào xuất hiện.
       Theo hòa thượng Mật Thể, “Việt Nam Phật Giáo sử lược” thì Phật Giáo vào thời kỳ này “Chỉ còn là sự cung cấp cầu đảo và tăng đồ đã thành những tay sai đáng thương hại của vua quan hoặc các nhà có tiền muốn cầu tự, cầu tài, mặc dầu bề ngoài họ tưởng rằng họ vẫn được tôn kính”.

---------—]–-------

PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRONG VAI TRÒ DỰNG NƯỚC Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét