CON ĐƯỜNG TẦM SƯ HỌC ĐẠO CỦA NGÀI LỤC TỔ HUỆ NĂNG
Ngôi vị Lục Tổ
không phải dễ thừa kế, đảm trách. Vì sao vậy? Vì có rất nhiều người muốn giết
Ngài. Ngay cả đệ tử của Ngài là Chí Triệt cũng tìm cách giết hại Ngài. Vì thế
Ðại sư sau khi đắc pháp đã tỵ nạn mười sáu năm trong nhóm thợ săn. Thậm chí sau
khi kiến lập Pháp đàn tại Nam Hoa Tự, vẫn còn có ngoại đạo công khai muốn giết
Ngài. Cho nên Ðại sư chạy lên núi ẩn trong núi đá toạ thiền.
Lục Tổ Ðại sư từ
đâu mà có danh hàm Lục Tổ? Ðiều này bắt đầu từ Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma. Bồ Ðề có
nghĩa là Giác, Ðạt Ma có nghĩa là Pháp. Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma là Tổ thứ hai mươi
tám tại Ấn Ðộ, nhưng tại sao Ngài không ở Ấn Ðộ làm Tổ mà đi đến Trung Hoa làm
gì? Vì xưa kia Phật đã thọ ký: Ðến đời Tổ thứ hai mươi tám, Ðại thừa Phật pháp
sẽ truyền đến Trung Quốc. Do nhân duyên như thế, Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma ngồi thuyền
đến Trung Hoa truyền đạo. Nhưng lúc đó Phật Pháp tại Trung Quốc, dường như có
dường như không, bởi vì chỉ làm công tác bên ngoài như tụng kinh, nghiên cứu
kinh điển, giảng kinh v.v.., ngay cả việc bái sám cũng không có. Ðương thời các
học giả đều cho Phật giáo như là một loại học vấn để nghiên cứu thảo luận.
Các đạo lý mà
Phật giáo nói đều phải y theo mà tu hành. Nhưng thời đại Nam Bắc triều của
Trung Hoa lúc đó không có người nào chân chánh tu hành toạ thiền, vì sợ khổ
cực.
Tổ sư Ðạt Ma
nhìn thấy căn tánh Ðại thừa ở Trung Hoa đã chín muồi, bèn không ngại gian khổ,
đường sá xa xôi, đem Phật pháp Ðại thừa đến Trung Quốc. Nhưng lúc đó vì ngôn
ngữ không thông, người Trung Hoa gọi Ngài là "Ma-la-sát." Trẻ con
nhìn thấy gương mặt Ngài với bộ râu dài đều hoảng sợ chạy mất. Người ta cho
rằng Ngài đến để bắt trẻ con vì thế không cho trẻ con đến gần Ngài.
Sau đó Tổ sư Ðạt
Ma đến Nam Kinh nghe Pháp sư Thần Quang giảng Kinh, nhìn thấy cảnh giới thù
thắng: "Chư thiên
rải hoa cúng dường, dưới đất sen vàng hiện ra." Cảnh giới này chỉ có người
đã đắc Ngũ nhãn Lục thông mới thấy được. Sau khi giảng Kinh xong, là đến phần
thỉnh pháp, hỏi pháp, Tổ sư Ðạt Ma hỏi:
–Pháp sư! Ông ở
đây làm gì?
Thần Quang trả
lời:
–Tôi ở đây giảng
Kinh.
–Ông giảng Kinh
làm gì?
–Tôi giảng Kinh,
đưa người liễu ngộ sinh tử.
–Làm sao có thể
liễu ngộ được sanh tử? Kinh mà ông giảng đều là giấy trắng mực đen, ông dùng
cái gì mà có thể giúp người liễu đoạn sanh tử ?
Thần Quang bị
hỏi không có cách nào trả lời, vì thế xấu hổ mà tức giận. Tuy Pháp sư Thần
Quang giảng kinh được chư thiên rải hoa cúng dường nhưng vẫn còn tính nóng giận
như vậy. Vì thế tôi nói Phật Pháp đương thời dường như có dường như không. Pháp
sư Thần Quang tức giận liền cầm lấy xâu chuỗi niệm Phật làm bằng sắt nói:
–Ông dám huỷ
báng pháp à!
Nói xong liền
dùng xâu chuỗi đánh vào mặt Ðạt Ma. Tổ sư Ðạt Ma tuy biết võ thuật, nhưng không
ngờ Thần Quang lợi hại như thế, nói không lại liền động võ, kết quả bị đánh gãy
hai cái răng. Ngài nuốt hai cái răng vào bụng, không nói một lời liền bỏ đi.
Trên đường đi,
Ngài gặp con chim Anh Vũ bị nhốt trong lồng. Chim Anh Vũ còn thông minh hơn
Thần Quang vì biết Bồ Ðề Ðạt Ma là một vị Tổ Sư, nên thưa với Ngài rằng:
–Tây lại ý, Tây
lại ý, thỉnh Ngài dạy cho chúng con cách thoát ra khỏi lồng.
Ðạt Ma đến Trung
Hoa chưa gặp được tri âm, nay Anh Vũ này lại là tri âm của Ngài. Nghe chim
thỉnh giáo mình như vậy, Ðạt Ma rất vui vẻ dạy cho nó một bí quyết: "Muốn
thoát khỏi lồng, hai chân duỗi thẳng, đôi mắt nhắm nghiền, đây là diệu kế, giúp
con thoát lồng."
Anh Vũ sau khi
hiểu được phương pháp thoát lồng, bèn thưa: "Nay con đã hiểu rồi, cám ơn
Ngài chỉ dạy." Anh Vũ nhìn thấy người chủ từ xa trở về, đợi người chủ đến
gần, nó liền sử dụng phương pháp đó. Mỗi ngày người chủ trở về đều đến chơi với
con chim yêu quý để tiêu sầu giải muộn, nay nhìn thấy Anh Vũ yêu quý nằm bất
động trong lồng liền rất lo lắng, bèn mở cửa lồng đem Anh Vũ để nơi lòng bàn
tay: "Ồ! thân chim vẫn còn nóng." Vì chim giả chết nên khí nóng vẫn
còn. Người chủ vừa mở nắm tay ra Anh Vũ liền bay đi! Kế thoát lồng thật hiệu
nghiệm.
Chúng ta hiện
nay vẫn còn ở trong lồng, đừng nên cho rằng mình đang tự do. Muốn ăn thì ăn,
muốn uống thì uống, không giữ gìn quy củ cho là tự do. Ðiều này thật là mê muội
vì đã hiểu một cách sai lầm về tự do. Tự do chân chánh là sanh tử tự do, muốn
bay lên trời thì lên trời, muốn độn thổ xuống đất thì độn thổ; có được những
bản lãnh như thế mới gọi là tự do chân chánh.
Pháp sư Thần
Quang đánh gãy hai cái răng của Hoà Thượng mặt đen, nhưng thấy Hoà Thượng Ấn Ðộ
không có phản ứng gì, bèn cho rằng mình thắng. Nhưng không lâu sau đó quỷ vô
thường đến gặp Pháp sư nói:
– Pháp sư, hôm
nay mạng sống của ngài đã hết. Vua Diêm La sai tôi đến mời ngài đi.
– Tôi mà cũng
phải chết à? Tôi giảng Kinh được trời rãi hoa cúng dường, đất hiện ra hoa sen
vàng mà còn không thể dứt vòng sanh tử thì thế gian này còn có ai có thể dứt
vòng sanh tử?
– Có chứ! Chính
là Ngài Hoà Thượng mặt đen mà bị ông đánh gãy hai cái răng đó. Diêm Vương không
những không cai quản được số mạng của Ngài mà mỗi ngày còn phải hướng về Ngài
khấu đầu đảnh lễ.
– Quỷ đại ca!
Bạn có thể chờ tôi một chút được không? Xin nói với Diêm Vương dùm tôi một
tiếng, xin cho tôi một thời gian ngắn để tôi đi học pháp môn liễu đoạn sanh tử
của Ngài Hoà Thượng mặt đen.
–Nếu ông thật có
lòng thành như vậy thì việc này không phải không có thể linh hoạt giải quyết.
Thần Quang nghe
nói rất vui mừng, không kịp mang dép, chân đất đuổi theo Tổ sư Ðạt Ma. Trên đường
gặp chim Anh Vũ đã được Ngài Ðạt Ma giúp cho thoát khỏi lồng. Anh Vũ nói cho
Thần Quang biết Ngài Ðạt Ma đã giúp nó như thế nào. Thần Quang đi theo sau lưng
Tổ Sư, nhưng Tổ không để ý đến. Thần Quang đi theo cho đến núi Hùng Nhĩ ở Lạc
Dương (Chùa Thiếu Lâm, Tung Sơn, Hà Nam ).
Tổ sư Ðạt Ma ở đó diện bích toạ thiền, Ngài ngồi suốt chín năm, Thần Quang cũng
quỳ đủ chín năm. Một ngày kia tuyết lớn, tuyết phủ đến hông. Ðạt Ma nói:
– Tuyết lớn như
vậy ông quỳ đó làm gì?
– Bạch Tổ Sư,
con muốn liễu đoạn sanh tử. Lúc trước con giảng Kinh không thể liễu đoạn sanh
tử, nay kính xin Tổ Sư truyền dạy cho con pháp môn liễu đoạn sanh tử.
– Ngươi nhìn,
trời hiện rơi cái gì?
– Bạch Tổ Sư,
trời đang rơi tuyết.
– Tuyết có màu
gì?
– Bạch Tổ Sư,
tuyết màu trắng.
– Ngươi đợi đến
lúc nào mà trời rơi tuyết màu đỏ thì lúc đó ta sẽ truyền dạy pháp môn liễu đoạn
sanh tử cho ngươi. Nếu trời không rơi tuyết đỏ thì ngươi đừng nên hy vọng ta
truyền dạy cho. Ngươi là một kẻ xuất gia hung ác như vậy, dùng xâu chuỗi niệm
Phật bằng sắt đánh gãy hai cái răng của ta, ta không báo thù cũng là từ bi lắm
rồi, làm sao lại có thể truyền pháp cho ngươi được?
Ðạt Ma đưa ra
vấn đề khó khăn như vậy để khảo nghiệm Thần Quang, nhưng Thần Quang đã giải
quyết được. Thần Quang nhìn thấy trên tường có một thanh giới đao của người tu
đạo, dùng dự bị lúc phạm giới thì đem đao chặt đứt đầu mình chớ không để phạm
đến giới thể. Thần Quang liền lấy thanh đao đó xuống chặt đứt cánh tay mình,
máu rơi đầy mặt đất đã làm tuyết trắng biến thành tuyết đỏ. Thần Quang liền bụm
lấy một nắm tuyết đỏ đem dâng đến trước mặt Ngài Ðạt Ma và nói:
– Bạch Tổ Sư,
Ngài xem, đây chính thật là tuyết đỏ.
Ðiều này vốn đã
ở trong dự liệu, chỉ vì muốn thử thách chân tâm của Thần Quang, mà Ðạt Ma mới
đưa ra vấn đề thử thách này. Vì thế Ngài rất hoan hỷ nói:
– Ta đến Trung
Hoa thật không có uổng công, gặp phải ngươi là người chân thành cầu pháp tu
hành như vậy, ngay cánh tay của chính mình cũng bỏ đi để cầu pháp, quả là có
tâm thành.
Sau đó Ngài Ðạt
Ma mới đem pháp môn dĩ tâm ấn tâm, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật
truyền cho Thần Quang. Sau khi Ngài Ðạt Ma giảng xong pháp môn, Thần Quang liền
sanh tâm phân biệt nói:
– Con chặt đứt
cánh tay, rất đau nhức, tâm cũng rất nhức nhối, xin Tổ Sư an tâm cho con.
– Ðem tâm của
ông ra đây, ta mới có thể giúp ông an tâm!
Thần Quang bèn
đi tìm tâm của mình, Ðông Tây Nam Bắc, trên trời dưới đất, tìm hoài mà không
thấy tâm của mình. Thần Quang nói:
– Con tìm không
ra.
– Ta đã an tâm
cho ông rồi.
Thần Quang lập
tức hoát nhiên đại ngộ. Vì thế Thần Quang nói:
Vạn pháp quy
nhứt, nhứt quy hà xứ ?
Thần Quang bất
minh cản Ðạt Ma.
Hùng Nhĩ sơn
tiền quỵ cửu tái,
Chỉ cầu nhứt
điểm đoá Diêm
La.
Vạn pháp quy
nhứt, vậy nhứt quy về đâu? Thần Quang không rõ nghĩa lý của chữ
"hợp," vì thế đuổi theo Ðạt Ma, tại núi Hùng Nhĩ quỳ suốt chín năm,
chỉ cầu Tổ Sư chỉ điểm cách liễu đoạn sanh tử, thoát khỏi Diêm Vương.
Thần Quang sau
khi được Tổ sư Ðạt Ma truyền pháp, liền đổi tên là Huệ Khả, tức là trí huệ đầy
đủ, thiện căn viên mãn. Ðại sư Huệ Khả hỏi Tổ sư Ðạt Ma:
–Bạch Tổ Sư, ở
Ấn Ðộ Ngài có đồ đệ đắc pháp chưa? Ở Ấn Ðộ, khi truyền pháp có đem ca sa, y,
bát truyền cho đồ đệ để làm bằng cớ không?
–Không có, ở Ấn
Ðộ ta truyền pháp không có đem ca sa y bát làm vật y cứ, vì tâm người Ấn Ðộ rất
thẳng thắn, tu hành đắc đạo liền nói đắc đạo, chỉ cần có người chứng minh đắc
đạo là đủ. Nếu chưa được ấn chứng, họ sẽ không nói là: tôi đã đắc đạo chứng
quả, tôi đã chứng A La Hán, hoặc tôi đã là Bồ Tát. Người Trung Hoa không giống
như vậy. Ở Trung Quốc, người có căn tánh Ðại thừa cũng rất nhiều, nhưng người
nói vọng ngữ cũng không ít, tu hành chưa thành tựu đạo nghiệp mà khoe khoang đã
thành; chưa chứng quả cũng tự nói đã chứng quả, vì thế cần phải dùng ca sa y
bát để chứng minh. Cho nên nay ta truyền ca sa y bát cho ông, ông nên cẩn thận
giữ gìn.
Tổ sư Ðạt Ma đến
Trung Quốc, từng bị đầu độc sáu lần, vì đương thời Bắc Nguỵ có hai vị Pháp sư
muốn hại Ngài, một vị là Bồ Ðề Lưu Chi, một vị là Luật sư Quang Thống. Họ rất
đố kỵ Ngài, đã làm ra vài món đồ chay, trong đó có chất độc cực mạnh đem đến
cúng dường Ngài. Ngài biết trong thức ăn có độc nhưng vẫn ăn một cách bình
thường. Ăn xong kêu người đem một cái mâm lại, Ngài mửa vào mâm một đống rắn.
Thì ra chất độc đã biến thành rắn. Bồ Ðề Lưu Chi thấy độc không thể giết được
Ngài, không hiểu vì duyên cớ gì. Vì thế lần thứ hai bỏ liều lượng thuốc độc gấp
đôi. Ðạt Ma cũng ung dung thọ dụng, ăn xong liền ngồi tại một tảng đá lớn, phun
thuốc độc ra, sức mạnh của thuốc độc đã làm bể tan tảng đá. Sau đó liên tiếp
thêm bốn lần hạ độc nữa nhưng đều không thể hại được Ngài.
Một ngày nọ, Tổ
sư Ðạt Ma nói với Ðại sư Huệ Khả rằng:
–Ta đến Trung
Quốc, để độ chúng sanh có căn tánh Ðại thừa. Nay pháp đã truyền, ta đã có người
kế thừa, giờ viên tịch cũng đã đến.
Sau khi Tổ sư
Ðạt Ma viên tịch, chúng đệ tử dùng quan tài bọc xác Ngài đem chôn. Nhưng lúc
ấy, Bắc Nguỵ có một sứ quan tên là Tống Vân, tại vùng Thông Lãnh, trên đường đi
gặp Tổ sư Ðạt Ma. Tổ Sư, tay cầm dép, nói với Tống Vân rằng:
– Quốc Vương
nước ông hôm nay băng hà, ông nên mau mau trở về.
Tống Vân hỏi:
–Ðại sư, Ngài đi
đâu?
–Ta trở về Ấn
Ðộ.
–Ðại sư, Ngài đã
truyền pháp cho ai?
–Bốn mươi năm
sau tại Trung Quốc.
Sau đó Tống Vân
trở về đến Bắc Nguỵ đem việc này kể cho mọi người nghe, nhưng không ai tin. Vì
thế mọi người mới quật mồ của Tổ sư Ðạt Ma ra xem, trong quan tài chỉ còn chiếc
dép, ngoài ra không có cái gì khác. Như vậy Tổ sư Ðạt Ma đi đâu? Mọi người cũng
không ai biết.
Lúc Tổ sư Ðạt Ma
sắp viên tịch, Ngài nói:
–Ta đến Trung
Hoa truyền pháp cho ba người, Ðại sư Huệ Khả được phần tuỷ, Thiền sư Ðạo Dục
được phần xương, Tỳ kheo ni Ðạo Tế (tức Tỳ kheo ni Tổng Trì) được phần thịt.
Tổ sư Huệ Khả
lúc bốn mươi tuổi gặp Sơ Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma, sau khi đắc pháp bèn ẩn trốn bốn mươi
năm, vì đương thời Bồ Ðề Lưu Chi và Luật sư Quang Thống, chuyên gây khó dễ với
các đệ tử của Tổ sư Ðạt Ma, thậm chí gặp là muốn giết. Bồ Ðề Ðạt Ma đã bị hai
vị ấy dùng thuốc đầu độc, huống chi là đệ tử của Ngài! Ðại sư Huệ Khả nghe theo
lời Thầy dạy nên đã ẩn núp, trốn tránh những người gây khó dễ này. Cho đến lúc
Ðại sư Huệ Khả tám mươi tuổi, Ngài mới bắt đầu hoằng dương Phật pháp, giáo hoá
chúng sanh. Cho đến khi gặp Tam Tổ Tăng Xán, sau khi phú pháp, dặn dò Tam Tổ
phải cẩn thận bảo hộ giữ gìn y bát làm chứng cứ, và cần phải ẩn trốn để tránh
những sự tật đố và bức hại.
Ðại sư Huệ Khả
lúc đó giả dạng điên khùng, nhưng khi gặp chúng sanh hữu duyên, Ngài liền phổ
độ giáo hoá họ. Tuy Ngài giả dạng điên khùng, nhưng vì có duyên với chúng sanh
cho nên có rất nhiều người tin tưởng Ngài. Tuy Ngài đã giả dạng điên khùng,
nhưng bè nhóm của Bồ Ðề Lưu Chi vẫn đem lòng ganh ghét, bèn đi đến quan phủ vu
cáo Ðại sư Huệ Khả, nói Ngài là yêu quái mê hoặc dân chúng, để dân chúng sùng
bái. Hoàng đế đương thời lại cả tin bèn hạ thánh chỉ, ra lệnh quan phủ bắt Huệ
Khả thẩm vấn:
–Ngươi là người
hay là yêu quái?
Huệ Khả Ðại sư
trả lời:
– Tôi là yêu
quái.
Viên quan thẩm
vấn vừa nghe Ngài nói như vậy, liền biết Ngài bị oan ức, nên hỏi lại:
– Ông nên nói
cho rõ ràng, ông là người hay yêu quái?
– Tôi thiệt đúng
là yêu quái.
Vì quốc pháp
không cho phép yêu quái mê hoặc thế gian, cho nên đành phải tâu lên Hoàng đế,
đem Ngài đi chém để răn chúng. Ôi, thế gian này có chân lý không vậy! Ngài là
Tổ Sư đời thứ hai mà quan phủ nói Ngài là yêu tinh.
Ðại sư Huệ Khả
rơi nước mắt, nói với đồ chúng rằng:
– Quả báo này ta
phải thọ thôi!
Ngài cảm thấy
thương tâm là vì Phật Pháp lúc Ngài còn tại thế, chưa được người ta hiểu biết
rộng rãi. Ngài nói Phật Pháp đến thời Tứ Tổ sẽ rơi vào danh tướng, có danh có
tướng, liền chấp vào danh tướng. Khóc xong Ngài liền nói với tên đao phủ:
– Ngươi lại giết
ta đi!
Ðao phủ cầm đao
chém đầu Ngài nhưng lạ thay lại không có máu tuôn ra, chỉ tuôn ra dòng nước
trắng như sữa. Ðây là lúc người tu hành đạt đến thể thuần dương, tất cả máu
huyết trong người đều biến thành màu trắng. Viên quan chấp hành nhìn thấy tình
hình như thế bèn y như sự thật tâu lên hoàng đế:
–Người đó thiệt
là yêu quái, tôi đã giết ông ta nhưng không thấy máu chảy ra, chỉ chảy ra dòng
nước trắng như sữa, nhưng gương mặt lúc chết giống như lúc sống, điều này chứng
minh ông ta chính thiệt là yêu quái.
Nhưng Hoàng đế
biết rằng đã giết lầm một bậc Thánh nhân, vì ở Ấn Ðộ Tổ thứ hai mươi bốn là Tôn
giả Sư Tử, khi bị chặt đầu thì không chảy máu mà chỉ chảy nước sữa màu trắng.
Ðiều này chứng minh nhân thể thuần dương vô âm, vì vô lậu không có vô minh nên
âm đều biến thành dương.
Hoàng đế sau khi
biết Ðại sư Huệ Khả là vị nhục thân Bồ Tát, bèn sanh lòng sám hối: "Có một
vị Bồ Tát ở nước ta, mà Trẫm không biết bảo hộ lại đem Ngài giết đi". Bèn
ra lệnh văn võ đại thần đều phải quy y Nhị Tổ Huệ Khả. Tuy Ngài chết đi nhưng
vẫn có thể thâu được một số đệ tử như thế.
Ðời Tuỳ, Tam Tổ
Tăng Xán, không ai biết thân thế tánh danh của Ngài. Lúc Ngài gặp Nhị Tổ, toàn
thân Ngài đều là ghẻ lác giống như người mắc bệnh phong cùi. Nhị Tổ hỏi:
–Ông từ đâu đến
đây? Ðến đây làm gì?
–Con đến quy y
Hoà Thượng cầu học Phật pháp.
–Ông mắc bệnh
như vậy thật không thanh tịnh, làm sao có thể học được Phật pháp?
Tam Tổ bèn thưa:
–Con là người có
bệnh, mà Ngài là một bậc Hoà Thượng, nhưng tâm Ngài và con không có gì sai
khác.
Nhị Tổ nghe nói
liền biết người này không phải tầm thường, liền nói:
–Không cần nói
nữa, ta đã biết rồi.
Nói xong bèn
truyền pháp cho Tam Tổ và dạy Tam Tổ phải ẩn trốn để tránh sự sát hại của dư
đảng Bồ Ðề Lưu Chi:
–Không nên để
cho người biết ta đã truyền pháp cho ông.
Vì thế Tam Tổ
Tăng Xán học cách của Nhị Tổ, giả dạng điên khùng, âm thầm đi các nơi giáo hoá
chúng sanh. Lúc đó gặp lúc Bắc Chu Vũ Ðế tiêu diệt Phật pháp nên Ngài ẩn cư
trong núi hơn mười mấy năm. Trên núi vốn có rất nhiều sài lang hổ báo, nhưng
khi Ngài vừa đến ở đây các loài động vật đó đều bỏ đi hết.
Sau khi truyền
pháp cho Tứ Tổ Ðạo Tín, Tam Tổ bèn thiết Thiên Tăng Trai (thỉnh một ngàn vị
Tăng thọ trai cúng dường). Trai đàn hoàn mãn, Ngài bèn nói với đại chúng:
–Các ông cho
rằng kiết già ngồi chết là phương pháp hay nhứt, nay ta cho các ông xem một
cách chết đặc biệt. Sự sanh tử của tôi rất tự do, không bị hạn chế của thời
gian.
Nói xong, tay
trái cầm lấy cành cây, chân giơ lên như thế mà an nhiên thị tịch. Lúc Ngài viên
tịch, là bao nhiêu tuổi, là người ở địa phương nào, thân thế ra sao, đều không
ai biết.
Tứ Tổ Ðạo Tín,
lúc nhỏ theo Tam Tổ Tăng Xán xuất gia học đạo, sáu mươi năm ngồi không nằm, đôi
mắt thường nhắm, dụng công biện đạo, không phải Ngài ngủ. Khi Ngài mở mắt,
người thường đều giật mình kinh sợ giống như bị động đất. Tại sao vậy? Không ai
biết được. Nhưng đó chính là uy đức của Ngài.
Ðường triều
Trinh Quán năm thứ mười bảy (công nguyên năm 644), Thái Tông phái sứ thần mời
Ngài đến hoàng cung để cúng dường, lễ Ngài làm thầy. Nếu như Pháp sư đời nay,
Hoàng đế không mời cũng tìm cách gặp Hoàng đế, dựa dẫm vào, huống chi nay được
lễ bái cung thỉnh? Nhưng Tứ Tổ đã từ chối, lựa lời nói:
–Tôi niên kỷ đã
lớn, đi cũng đi không nổi. Tuổi già sức yếu, cho nên không thể đi đến Kinh
thành được.
Sứ thần trở về
tâu lên Hoàng đế, Hoàng đế nói:
–Ngươi quay về
nói với Tứ Tổ, bất luận là Ngài lớn tuổi đến đâu đi nữa, ta vẫn mời Ngài vào
hoàng cung cúng dường.
Sứ giả đành đi
đến chỗ Tứ Tổ, thưa với Ngài rằng:
–Hoàng thượng
nói bất luận là Ngài già yếu đến đâu, cũng dùng kiệu để rước Ngài vào hoàng
cung để cúng dường.
Ngày xưa không
có máy bay, không giống như bây giờ giao thông rất tiện lợi. Tứ Tổ trả lời:
–Không được, tôi
đã quá già, nếu như ông nhất định muốn tôi đi, thì chặt đầu tôi mà đem đi. Chớ
tâm của tôi dù thế nào đi nữa cũng nhất quyết không đi.
Sứ giả không có
cách nào, chỉ đành trở về đem sự việc như thế báo cáo hoàng đế:
–Vị Hoà Thượng
đó thật là kỳ lạ, cũng không biết nhân tình thế thái. Ông ta nói dù chặt đầu
ông ta, ông ta cũng không đến gặp bệ hạ.
–Ðược, khanh hãy
đi đem đầu ông ta mang về đây.
Vua dùng một cái
hộp, trong hộp có đựng một thanh gươm bén giao cho sứ thần và nói:
–Cầm lấy thanh
gươm này, chặt đầu ông ta mang về đây.
Nhưng lúc sắp
khởi hành, Hoàng đế lại nói với sứ thần:
–Dù thế nào đi
nữa khanh cũng không được làm tổn thương đến vị Hoà Thượng đó.
Sứ thần hiểu rõ
thâm ý của Hoàng đế, liền quay trở lại đến chỗ của Tứ Tổ và nói:
–Lão Hoà Thượng!
Rốt cuộc Ngài có đi hay không? Nếu không đi, thanh gươm này sẽ dùng để chặt đầu
Ngài, đem đầu Ngài đi gặp hoàng thượng.
Tổ sư Ðạo Tín
nói:
–Tốt lắm! đầu
của tôi có thể gặp hoàng thượng, đó là vinh dự của tôi, mời Ngài lại chặt đầu
của tôi đi!
Sứ thần cầm
thanh gươm làm điệu bộ như chặt đầu Tứ Tổ. Nhưng nhìn thấy Tứ Tổ quả nhiên giơ
đầu ra chịu chém không chút sợ sệt, bèn bỏ gươm xuống, cất lại vào hộp. Tổ sư
Ðạo Tín nhắm mắt chờ sứ thần chém đầu, nhưng chờ rất lâu mà không thấy động
tĩnh, bèn tức giận la lên:
–Tại sao ngươi
không chặt đầu ta.
Tình hình lúc
này cũng không khác gì trường hợp của Nhị Tổ. Sứ thần nói:
–Nhà Vua sai tôi
chỉ được nói như vậy, nhưng không được làm tổn hại đến Ngài.
Tổ sư Ðạo Tín
nghe xong cười lớn nói:
–Nay ông đã
biết, trên thế gian thiệt có người không sợ chết!
Tứ Tổ họ Tư Mã,
xuất gia pháp danh Ðạo Tín, là một dòng họ có danh vọng thời bấy giờ. Từ nhỏ
xuất gia học đạo, tại thế bảy mươi hai năm, sáu mươi năm lưng không dính chiếu,
đã thành tựu cảnh giới bất khả tư nghì. Có lần Ngài đang ở trên núi tu đạo, có
một đám giặc cướp bao vây thành khoảng hơn một trăm ngày, lương thực trong
thành cùng với nước uống đều dứt tuyệt, khô kiệt. Ðại sư nhìn thấy tình hình
như thế, bèn đến trong thành dạy tất cả quan quân và dân chúng tụng "Ma Ha
Bát Nhã Ba La Mật Ða." Niệm không bao lâu, giặc cướp bèn rút lui, giếng
nước đang khô cạn tự nhiên tràn ra những dòng nước ngọt, đây là một cảnh giới
cảm ứng.
Lúc đó, Ngài
dùng Phật nhãn quan sát, thấy núi Phá Ðầu ở Hà Bắc, có mây tía xoay quanh, bao
trùm cả khu núi đó. Những vầng mây tía này là điều báo điềm lành, vì thế Ngài
bèn đến trú ngụ tại ngọn núi này, và đổi tên núi là Song Phong Sơn.
Ngài giáo hoá
những chúng sanh cang cường khó độ, mong cho họ bỏ ác làm lành, nhưng họ cứ y
theo đường cũ tiếp tục làm ác, không nghe theo lời giáo hoá. Tứ Tổ nhẫn nại áp
dụng các loại pháp môn phương tiện quyền xảo, khiến cho họ bỏ tà quy chánh.
Trong hơn bốn mươi năm hoằng dương Phật pháp, Ngài giáo hoá chúng sanh nhiều vô
số.
Một ngày nọ Tứ
Tổ nói với đồ chúng rằng:
–Các ông phải
làm cho ta một cái tháp, ta sắp đi rồi.
Khi Bảo tháp vừa
xây xong, đời Ðường Vĩnh Huy năm thứ hai (công nguyên năm 651), ngày hai mươi
bốn tháng chín nhuần, Tứ Tổ không bệnh mà viên tịch. Ðồ đệ của Ngài liền đặt
Ngài vào trong Bảo tháp làm bằng đá. Bảo tháp vốn dùng khoá sắt khoá cẩn thận.
Một năm sau đó, cửa tháp tự động mở ra, đồ chúng thấy Tứ Tổ vẫn đoan nhiên
chánh toạ bên trong, sinh động giống như lúc sống, nhưng thịt thì đã khô. Ngũ
Tổ Hoằng Nhẫn, nhìn thấy tướng hảo của Tứ Tổ như vậy rất hoan hỷ. Ngài bèn dùng
vải dầu phết vàng, giữ gìn nhục thể của Tứ Tổ. Cho đến ngày nay nhục thể của Tứ
Tổ vẫn còn lưu lại cho người đời lễ bái chiêm ngưỡng cúng dường.
Ðường triều Ngũ
Tổ Hoằng Nhẫn, họ Châu, là người Hoàng Mai (huyện Hoàng Mai nay thuộc tỉnh Hồ
Bắc, núi Song Phong thuộc huyện Hoàng Mai), bảy tuổi xuất gia, bái Tứ Tổ làm
Thầy, mười ba tuổi thọ Sa di giới. Tánh tình hồn hậu ít nói, tuy các bậc đồng
học nhiều lần ăn hiếp khinh thường, Ngài vẫn bình thản, xem như không có gì xảy
ra. Ban ngày theo chúng công quả, việc gì cũng làm; ban đêm ngồi thiền nhiếp
trì thân tâm, không nói chuyện thị phi, đi theo Tứ Tổ ba mươi năm tu học Phật
pháp. Ngũ Tổ thân cao tám thước, tướng mạo kỳ đặc. Ngài trú trên ngọn núi Bằng
Mậu, phía đông của núi Song Phong, vì thế đương thời gọi là "Ðông Sơn pháp
môn." Có lần nhìn thấy một đám giặc cướp bao vây thành Hồ Bắc, ngăn chận
tất cả đường xá giao thông, Ngũ Tổ từ Ðông Sơn đi vào trong thành. Lúc bọn giặc
cướp trông thấy Ngài sợ hãi không còn hồn vía. Vì đám giặc cướp thấy không phải
là Tổ Sư mà là vị Kim Giáp Kim Cang Vương Bồ Tát, tay cầm bảo khí, oai đức lẫm
liệt, hào quang sáng ngời. Giặc cướp tứ tán rút lui, nhờ đó mà thành được giải
vây.
Ðường Hàm Hanh
năm thứ năm (công nguyên năm 674), Ngũ Tổ nói với đệ tử rằng:
–Các ông làm cho
ta một ngôi tháp, ta sắp đi rồi.
Tháng sau vào
ngày mười bốn, Ngài lại hỏi:
–Tháp đã chuẩn
bị xong chưa?
Chúng đệ tử trả
lời:
–Bạch Ðại sư,
tháp đã xây xong rồi.
–Nhiều năm qua
ta giáo hoá chúng sanh, độ hoá người có duyên, và phú pháp cho Lục Tổ Huệ Năng.
Nay các ông có mười người là bậc pháp tự, hãy kiến lập đạo tràng, hộ trì Phật
giáo, hoằng dương chánh pháp, giáo hoá chúng sanh.
Mười vị đại đệ
tử tức là Thần Tú, Trí Thâm, Huệ Tạng, Huyền Ước, Lão An, Pháp Như, Trí Ðức,
Nghĩa Phương, Huệ Năng và Lưu Chủ Bộ. Ngũ Tổ đưa tiễn mười vị này đi khắp các
nơi giáo hoá chúng sanh.
Không lâu, Ngũ
Tổ an toạ mà nhập Niết Bàn. Suốt bảy mươi bốn năm, rộng mở giáo pháp, đồ chúng
rất đông, truyền y bát cho Ðại sư Huệ Năng.
Trên đây đã lược
thuật Tây Thiên Tổ thứ hai mươi tám Bồ Ðề Ðạt Ma, đã đem pháp truyền vào phương
Ðông, là Sơ Tổ Thiền tông Trung Quốc. Ðời đời nối tiếp, nhất phái đơn truyền,
bẩm thừa chánh pháp nhãn tạng của Ðức Thích Ca Mâu Ni, cho đến sự tích của Ðức
Lục Tổ Huệ Năng.
"Lục Tổ
Pháp Bảo Ðàn Kinh lược tự," do Pháp Hải Thiền Sư, đệ tử đắc pháp của Lục
Tổ, biên soạn, ghi lại sự tích sanh bình của Lục Tổ.
Ðại sư tên là
Huệ Năng. Thân phụ của Ngài họ Lư, huý Hạnh Thao, thân mẫu của Ngài là Lý thị.
Ngài sanh vào đời Ðường, niên hiệu Trinh Quán, năm thứ mười hai, nhằm năm Mậu
Tuất, tháng hai, ngày mùng tám, giờ tý. Lúc sanh Ngài có một đạo hào quang
chiếu lên hư không, lại có mùi thơm xông khắp cả nhà.
Trời vừa hửng
sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến xin viếng và gọi thân phụ Ngài mà nói rằng:
"Nhơn có đứa nhỏ sanh ngày đêm qua, nên chúng tôi đến đặt tên giùm. Nên
đặt trên chữ Huệ, dưới chữ Năng."
Thân phụ Ngài
hỏi: "Sao gọi là Huệ Năng?"
Một vị tăng đáp:
"Huệ nghĩa là đem pháp huệ mà thí cho chúng sanh, Năng nghĩa là làm được
việc Phật."
Nói rồi hai vị
tăng liền đi ra, chẳng biết đi xứ nào.
Ðại sư khi lọt
lòng mẹ, không bú sữa, ban đêm có thần nhơn rưới nước cam lồ cho Ngài.
Ðến lớn hai mươi
bốn tuổi, Ngài nhờ nghe Kinh mà ngộ đạo. Ngài đến viếng Ngũ Tổ Hoàng Mai mà cầu
ấn khả.
Một ngày nọ, Huệ
Năng đang bán củi, nghe một người khách tụng Kinh Kim Cang, nghe đến câu
"ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm," liền lập tức khai ngộ.
Nghiêm phụ của
Huệ Năng vốn ở xứ Phạm Dương, làm quan bị giáng chức đày về Lãnh Nam làm
dân ở tại Huyện Tân Châu. Thân nầy bất hạnh, cha lại mất sớm, còn một mẹ già cô
độc, phải dời nhà qua quận Nam Hải. Nhà nghèo túng, cay đắng trăm bề, phải lên
núi đốn củi gánh về chợ bán.
Lúc ấy có một
người khách mua củi, bảo Huệ Năng đem đến tiệm. Khách thâu củi, Huệ Năng nầy
lãnh tiền rồi, bước ra ngoài cửa, thấy một người khách tụng kinh. Huệ Năng nầy
nghe qua, tâm liền khai ngộ.
Vì nhà nghèo,
Lục Tổ không được đi học, vì thế không biết chữ. Tuy Ngài không biết chữ, nhưng
thiên tánh thông minh đỉnh ngộ, vừa nghe kinh văn nói: Ưng vô sở trụ, nhi sanh
kỳ tâm liền lập tức khai ngộ, và hiểu rõ những cảnh giới từ trước đến nay chưa
từng hiểu rõ.
Mới hỏi khách
tụng kinh gì?
Khách đáp:
"Kinh Kim Cang."
Huệ Năng lại
hỏi: "Ở đâu đến mà trì tụng kinh ấy?"
Khách rằng:
"Tôi từ chùa Ðông Thiền, huyện Hoàng Mai, xứ Kỳ Châu lại đây. Chùa ấy do
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Ðại sư chủ trì giáo hoá tại đó. Môn nhơn của Ngài có trên một
ngàn người. Tôi đã đến chùa lễ bái nghe giảng và lãnh kinh ấy."
Lúc nghe nói có
thánh địa mà hiện nay hơn ngàn người đang cùng nhau tu học Phật pháp, Ngài rất
phấn khởi bèn hỏi người khách:
–Tôi nay phải
làm sao đây? Tôi rất muốn đi đến đó học pháp. Lúc tôi nghe ông tụng Kinh Kim
Cang, tôi đã hiểu rõ nghĩa lý của Kinh nên muốn đi cầu pháp nhưng tôi còn mẹ
già không người săn sóc, tôi làm sao giải quyết việc này đây?
Vì Bồ Tát không
cầu danh lợi, vì thế Lục Tổ không nói đến vị Ðại Bồ Tát đến giúp Ngài lúc này.
Kinh văn chỉ đơn giản nói: Vì nhân duyên kiếp trước, có một vị khách tặng Huệ
Năng mười lượng bạc. Ðây thật là một sự cúng dường rất lớn, vì Ngài một ngày
đốn củi đem đến chợ bán chỉ được vài đồng. Tức là dù cho Huệ Năng trong ngàn
ngày bán củi dành dụm tiền bạc cũng không thể nhiều hơn số bạc mà người khách
biếu cho.
Vị khách khẩn
khoản giục giã Ngài:
–Ông có tín tâm
lớn như vậy, vừa nghe kinh văn liền khai ngộ, hiểu rõ nghĩa lý. Vậy thì nhanh
lên! Hãy lập tức đi đến Hoàng Mai bái kiến Ngũ Tổ, điều này chắc chắc đối với
ông rất ích lợi. Lập tức lên đường, không nên chậm trễ!
Huệ Năng nầy lo
cho lão mẫu xong rồi, liền từ giả ra đi, chẳng đầy ba mươi ngày, tới huyện
Hoàng Mai, vào làm lễ Ngũ Tổ.
Tổ Sư hỏi:
"Ngươi là người phương nào, muốn cầu việc chi?"
Huệ Năng nầy
đáp: "Ðệ tử là dân huyện Tân Châu xứ Lãnh Nam, ở phương xa đến đây lạy Tổ
Sư, chỉ cầu thành Phật, chớ chẳng cầu chi khác!"
Tổ Sư nói:
"Ngươi là người xứ Lãnh Nam ,
lại là giống man di, thế nào thành Phật được!"
Huệ Năng nầy
nói: "Con người tuy có phân Nam Bắc, nhưng Phật tánh vốn không có Nam Bắc.
Cái thân man di này cùng với Hoà Thượng tuy chẳng giống nhau, chớ cái tánh Phật
nào có khác!"
Ngũ Tổ còn muốn
nói chuyện nữa, nhưng thấy chúng môn đồ đứng vây hai bên tả hữu, nên bảo Huệ
Năng theo chúng mà làm việc.
Huệ Năng nầy
nói: "Kính bạch Hoà Thượng, tự tâm của đệ tử thường sanh trí huệ, chẳng
lìa tự tánh, tức là phước điền, chẳng hay Hoà Thượng còn dạy làm công việc
gì?"
Tổ Sư rằng:
"Cái căn tánh của kẻ man di nầy thiệt lanh lợi. Ngươi chớ có nói nữa, hãy
đi ra nhà sau."
Huệ Năng nầy ra
đến nhà sau, có một người cư sĩ sai Huệ Năng nầy bửa củi giã gạo.
Trải qua tám
tháng dư, một ngày kia, Tổ Sư xảy thấy Huệ Năng nầy, Ngài nói rằng: "Ta
nghĩ chỗ tri kiến của ngươi dùng được, song sợ có kẻ ác hại ngươi, nên chẳng
nói chuyện với ngươi, ngươi có biết chăng?"
Huệ Năng nầy
nói: "Ðệ tử cũng hiểu ý Tôn sư, nên chẳng dám lên nhà trên, để người khác
không biết."
Một ngày kia,
Ngũ Tổ bảo các môn đồ tề tựu lại mà dạy rằng: "Ta nói cho chúng đệ tử rõ:
Sự sống thác của người đời là việc lớn. Các ngươi trọn ngày chỉ cầu phước điền,
chớ chẳng cầu ra khỏi biển khổ sống thác. Nếu tánh mình mê muội, thì phước nào
cứu được!"
Các ngươi hãy
lui về, mỗi người tự xét trí huệ của mình, lấy tánh Bát nhã của Bổn tâm mình mà
làm một bài kệ, đem trình cho ta xem. Nếu hiểu rõ đại ý, ta sẽ truyền y pháp
cho mà làm Tổ thứ sáu. Hãy đi cho mau, không được chậm trễ. Nếu để tâm suy
lường độ lượng, ắt chẳng ích dụng. Phàm người thấy tánh, khi nghe pháp rồi thì
phải thấy liền. Nếu được như thế, thì dầu hươi đao giữa trận cũng đặng thấy
tánh."
Các môn đệ khi
được lịnh rồi, đồng lui ra, lần lượt kêu nhau mà nói rằng: "Chúng ta chẳng
nên lóng tâm nặn óc làm kệ để trình cho Hoà Thượng, vì có ích chi đâu! Thượng
Toạ Thần Tú hiện làm thầy Giáo thọ, chắc người làm được. Chúng ta chẳng nên làm
kệ mà uổng phí tâm lực."
Ðại chúng nghe
nói yên lòng, đồng bảo từ đây sắp sau sẽ nương cậy Sư Thần Tú, cần gì phải làm
kệ cho phiền phức.
Sư Thần Tú nghĩ
thầm: "Các người ấy không trình kệ là vì nể ta là Giáo thọ, thầy của bọn
chúng. Ta phải làm kệ đem trình cho Hoà Thượng. Nếu không trình thì Hoà Thượng
đâu biết kiến giải của ta sâu cạn thế nào? Bổn ý ta trình kệ mà cầu pháp thì
tốt, còn nhắm vào ngôi Tổ thì xấu, cũng giống như người phàm mong đoạt ngôi
Thánh, có khác gì đâu! Bằng chẳng trình kệ rốt cuộc thì không đắc pháp. Thiệt
rất khó, rất khó!"
Sư Thần Tú làm
kệ xong mấy lần muốn đem trình, nhưng mỗi khi đến trước Tổ liêu thì trong lòng
hoảng hốt, mồ hôi ra ướt cả mình, nghĩ rằng không kệ được. Trước sau trải qua
bốn ngày, mười ba phen mà trình kệ chẳng được.
Thần Tú mới suy
nghĩ chi bằng biên bài kệ lên vách hành lang, nếu thình lình Hoà Thượng xem
thấy mà khen hay, thì ta ra lạy Ngài nói rằng bài kệ ấy là Thần Tú làm. Bằng
Ngài nói bài kệ không dùng được thì thiệt uổng công ta ở núi mấy năm, thọ sự lễ
bái của người, vậy còn tu đạo làm gì nữa?
Ðêm ấy đến canh
ba, Thần Tú chẳng cho ai biết, tự mình cầm đèn, viết bài kệ lên vách hành lang
phía nam, bày rõ chỗ thấy của tâm mình.
Kệ viết:
Thân thị Bồ đề
thọ,
Tâm như minh
cảnh đài,
Thời thời cần
phất thức,
Vật sử nhạ trần
ai.
Kệ rằng:
Thân ấy cây Bồ
đề,
Tâm như tấm
gương sáng..
Luôn luôn cần
phủi sạch,
Chớ để vướng bụi
trần.
Thần Tú chép bài
kệ rồi, bèn trở về phòng, chẳng có ai hay biết. Thần Tú lại nghĩ: "Nếu
ngày mai Ngũ Tổ thấy bài kệ mà vui mừng, tức là ta có duyên với pháp. Bằng Ngài
nói không dùng được, ấy bởi tâm ta mê muội, nghiệp chướng kiếp trước còn nặng,
nên chẳng kịp thời đắc pháp. Ôi! Thánh ý thật khó dò!"
Ở trong phòng,
Thần Tú cứ lo nghĩ mãi, suốt đến canh năm ngồi nằm chẳng yên.
Ngũ Tổ đã biết
trước Thần Tú chưa vào được cửa, chẳng thấy được tự tánh.
Trời sáng, Ngũ
Tổ vời Lư Cung Phụng đến, bảo vẽ cảnh biến tướng và cái hoạ đồ nói trên nơi
vách hành lang phía nam. Bổng thấy bài kệ ấy, Ngài bảo rằng: "Này quan
Cung Phụng, thôi chẳng cần vẽ. Thiệt nhọc công ông ở phương xa đến đây. Kinh có
nói rằng: ‘Phàm vật có hình tướng đều là giả dối.’ Vậy hãy để bài kệ ấy cho
người trì tụng. Cứ y theo bài kệ ấy mà tu hành, thì khỏi đoạ vào đường ác. Y
theo bài kệ ấy mà tu hành, thì có ích lợi lớn."
Ngũ Tổ dạy các
môn đồ thắp hương lễ kính, bảo tất cả hãy tụng bài kệ ấy thì đặng thấy tánh.
Các môn đồ tụng kệ đều khen: "Hay thay!"
Ðến canh ba, Ngũ
Tổ kêu Thần Tú vào trong thất, hỏi rằng: "Bài kệ ấy phải ngươi làm
chăng?"
Thần Tú nói:
"Thật là con làm, nhưng kẻ đệ tử chẳng dám vọng cầu Tổ vị, chỉ mong Hoà
Thượng từ bi xem coi đệ tử có chút trí huệ nào chăng?"
Ngũ Tổ nói:
"Ngươi làm bài kệ ấy, tỏ ra chưa thấy Bổn tánh. Ngươi mới tới thềm cửa,
chưa được vào trong nhà. Cứ như chỗ thấy hiểu ấy mà tìm Vô Thượng Bồ Ðề, thì
rốt cuộc không thể đạt được. Vô Thượng Bồ Ðề là hễ vừa nghe, liền biết Bổn tâm
và thấy Bổn tánh của mình, biết rằng Bổn tánh chẳng sanh chẳng diệt. Nhận ra
Bổn tâm rồi, thì luôn luôn niệm niệm, tự thấy rằng vạn pháp đều viên dung,
không ngưng trệ. Một pháp, mà hiểu thấu chơn tướng, thì tất cả các pháp cũng
đều hiểu thấu chơn tướng. Muôn cảnh đều phát sinh từ cảnh giới "như như
bất động", nên thấy muôn cảnh tự nó đều như như. Tâm mình, cũng vậy, như
như bất động. Tâm như như đó mới là chơn thật. Thấy như thế, mới là tự tánh Vô
Thượng Bồ Ðề vậy.
Ngươi hãy lui
ra, suy nghĩ một hai ngày, rồi làm bài kệ khác đem lại cho ta xem. Nếu bài kệ
của ngươi vào đặng cửa, ta sẽ truyền y pháp cho."
Thần Tú đảnh lễ
lui ra. Trải qua mấy ngày, Thần Tú làm kệ chẳng xong thì trong lòng hoảng hốt,
thần ý bồi hồi dường như trong mộng, đi đứng nằm ngồi chẳng yên vui.
Cách hai ngày có
một đồng tử đi ngang qua phòng giã gạo, xướng đọc bài kệ ấy. Huệ Năng nầy nghe
qua, biết bài kệ ấy chưa thấy Bổn tánh. Tuy ta chưa được Ngũ Tổ chỉ dạy, chớ đã
sớm biết đại ý, mới hỏi đồng tử rằng: "Tụng bài kệ gì vậy?"
Ðồng tử đáp:
"Người man di nầy không hay biết chi hết. Ðại sư nói sự sống thác của
người thế gian là việc lớn. Vì muốn truyền y bát, nên Ngài dạy các môn đồ, mỗi
người làm một bài kệ đem trình cho Ngài xem. Nếu ai hiểu đại ý, Ngài sẽ truyền
y bát cho, đặng làm Tổ thứ sáu. Thượng Toạ Thần Tú có biên một bài kệ Vô Tướng
ở vách hành lang phía nam. Ðại sư dạy mỗi người đều phải tụng. Nếu y theo kệ ấy
mà tu hành, thì khỏi đoạ vào đường ác. Y theo bài kệ ấy mà tu hành, thì có ích
lợi lớn."
Huệ Năng nầy
nói: "Tôi cũng muốn tụng bài kệ ấy, để kết nhơn duyên về đời sau. Nầy
thượng nhơn, tôi ở đây giã gạo đã trên tám tháng, mà chưa từng ra trước Tổ
đường, mong thượng nhơn dẫn tôi đến trước bài kệ đặng lễ bái."
Ðồng tử dẫn ta
đến trước bài kệ đặng lễ bái. Ta nói: "Huệ Năng không biết chữ, xin thượng
nhơn đọc giùm." Khi ấy có quan Biệt Giá ở Giang Châu, họ Trương tên Nhật
Dụng, cất tiếng đọc lớn.
Huệ Năng nầy
nghe rồi, bèn nói: "Tôi cũng có một bài kệ, mong ơn quan Biệt Giá chép
giùm."
Biệt Giá nói:
"Ngươi cũng biết làm kệ nữa sao? Việc này thật hiếm có!"
Huệ Năng nầy ngó
quan Biệt Giá mà nói: "Muốn học đạo Vô Thượng Bồ Ðề, thì chẳng nên khinh
dễ hàng sơ học. Có kẻ dưới thấp mà thường phát sanh trí huệ rất cao, có người
trên cao mà thường thường chôn lấp ý trí của mình. Nếu khinh khi người, ắt có
tội vô lượng vô biên."
Biệt Giá nói:
"Ngươi hãy ngâm kệ đi, ta chép giùm cho. Nếu ngươi đắc pháp, thì phải độ
ta trước. Chớ quên!"
Huệ Năng nầy
ngâm kệ rằng:
Bồ đề vốn không
cây,
Gương sáng cũng
chẳng đài.
Xưa nay không
một vật,
Chỗ nào vướng
trần ai?
Bài kệ ấy chép
rồi, cả thảy đồ chúng đều kinh hãi, không ai mà chẳng xuýt xoa. Mọi người kêu
nhau mà nói: "Lạ thay! Chẳng đặng xét người bằng diện mạo. Tại sao bấy lâu
chúng ta có thể sai khiến vị Bồ Tát xác phàm ấy!"
Ngũ Tổ thấy
chúng nhơn kinh ngạc và lấy làm lạ, e có kẻ muốn ám hại, Ngài mới lấy giày xoá
hết bài kệ mà nói rằng: "Cũng chưa thấy tánh." Ðồ chúng đều cho là
phải.
Ngày kế Ngũ Tổ
lén đến phòng giã gạo, thấy Huệ Năng nầy mang đá nơi lưng mà giã gạo. Ngài nói
rằng: "Người cầu đạo, vì pháp quên mình, phải như thế sao!"
Ngũ Tổ mới hỏi:
"Gạo trắng chưa?"
Huệ Năng nầy
đáp: "Gạo trắng đã lâu, chỉ còn thiếu sàng."
Tổ lấy gậy gõ
cối ba lần, rồi bỏ đi.
Huệ Năng nầy
hiểu ý Tổ Sư, đến canh ba liền vào thất.
Ngũ Tổ lấy cà sa
trùm kín cả Ngài và ta, chẳng cho ai thấy, rồi nói Kinh Kim Cang cho ta nghe,
đến câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm." Nên không trụ vào chỗ nào mà
sanh tâm mình.
Huệ Năng nầy
ngay lời đó đạt đại ngộ, biết rằng cả thảy muôn pháp chẳng lìa tánh mình, mới
bạch với Tổ Sư rằng:
Nào dè tánh mình
vốn tự thanh tịnh,
Nào dè tánh mình
vốn không sanh diệt,
Nào dè tánh mình
vốn tự đầy đủ,
Nào dè tánh mình
vốn không lay động,
Nào dè tánh mình
có thể sanh ra muôn pháp!
Tổ Sư biết ta tỏ
ngộ Bổn tánh, bảo Huệ Năng rằng: "Nếu chẳng biết Bổn tâm, thì học pháp vô
ích. Bằng biết Bổn tâm và thấy Bổn tánh, tức gọi là Trượng phu, là Phật, Thầy
cõi trời và cõi người vậy!"
Ðến canh ba, Huệ
Năng nầy thọ pháp, chẳng có ai hay. Tổ Sư truyền pháp Ðốn giáo và y bát cho ta
mà dạy rằng: "Ngươi là vị Tổ đời thứ sáu. Hãy khéo tự hộ niệm. Phải quảng
độ chúng hữu tình, và lưu truyền chánh pháp cho đời sau, đừng để đoạn tuyệt.
Hãy nghe bài kệ của ta đây:
Có tình mới gieo
giống,
Nhờ đất trái bèn
sanh,
Không tình không
có giống,
Không tánh ắt
không sanh."
Tổ Sư lại nói:
"Ngày xưa Ðạt Ma Ðại sư mới tới xứ này, vì người chưa tin nên phải truyền
y này để làm tín thể, nối truyền cho nhau từ đời này qua đời khác. Còn Pháp thì
lấy tâm truyền tâm, khiến cho người tự mình tỏ sáng, tự mình hiểu biết. Từ xưa
chư Phật chỉ truyền cái Bổn thể, chư Sư chỉ mật trao cái Bổn tâm mà thôi. Y là
cái mối của tranh, tới đời ngươi đừng truyền nữa. Nếu truyền y này, thì rất
nguy đến tánh mạng. Hãy đi cho chóng, kẻo e có kẻ hại ngươi."
Huệ Năng nầy
bạch: "Ði xứ nào?"
Tổ Sư nói:
"Gặp Hoài thì ở lại, gặp Hội thì ẩn nương nơi đó."
Canh ba, khi Huệ
Năng nhận lãnh y bát rồi bạch rằng: "Huệ Năng vốn là người Lãnh Nam ,
chẳng biết một con đường nào nơi núi này, làm sao ra đặng sông Cửu Giang?"
Ngũ Tổ nói:
"Ngươi chẳng phải lo, để ta đưa ngươi đi."
Tổ đưa ta thẳng
đến trạm Cửu Giang, bảo ta lên thuyền, rồi Ngũ Tổ tự cầm chèo mà đưa.
Huệ Năng nầy
nói: "Thỉnh Hoà Thượng ngồi, để cho đệ tử chèo mới phải."
Ngũ Tổ nói:
"Ta độ ngươi mới phải."
Huệ Năng nầy
nói: "Lúc mê thì Thầy độ, ngộ rồi thì tự độ lấy mình." "Ðộ"
tuy tên là một nhưng chỗ dùng không đồng. Huệ Năng nầy sanh nơi biên địa, giọng
nói không đúng, nhờ Thầy truyền pháp, nay đã được tỏ ngộ, thì chỉ nên tự tánh
tự độ (lấy tánh mình mà độ mình) mới phải."
Tổ Sư nói:
"Phải vậy, phải vậy! Từ đây sắp sau, Phật pháp sẽ do ngươi mà được thạnh
hành. Ngươi đi rồi, ba năm ta sẽ tạ thế. Nay ngươi hãy đi, gắng sức về hướng Nam ,
nhưng chẳng nên vội thuyết pháp, bởi vì Phật pháp hưng khởi từ trong khó
khăn."
Huệ Năng nầy từ
biệt Tổ Sư, đi về hướng Nam ,
trong hai tháng tới núi Ðại Dưu Lãnh.
(Khi Ngũ Tổ trở
về, cách mấy ngày chẳng ra giảng đường. Các môn đồ có lòng nghi, bèn đến hỏi
thăm: " Hoà Thượng có chút bệnh hay buồn chi chăng?" Tổ nói: "Ta
không có bịnh chi, nhưng Y Pháp đã về hướng Nam rồi."
Ðồ chúng hỏi: "Ai được truyền thọ?" Tổ nói: "Người có khả năng
đã được." Khi ấy đồ chúng mới hay.)
Phía sau có mấy
trăm người đuổi theo ta, muốn đoạt y bát.
Có một thầy họ
Trần, tên Huệ Minh, ngày trước làm Tứ phẩm Tướng quân, tánh tình thô bạo, quyết
chí tìm ta. Thầy cầm đầu chúng nhơn và đuổi theo kịp Huệ Năng nầy. Huệ Năng đặt
y bát lên tảng đá mà nói rằng: "Y này là vật biểu tín, há dùng sức mà
tranh được sao!" Ðoạn Huệ Năng nầy ẩn mình trong đám cỏ tranh.
Huệ Minh đến cầm
y giở lên mà không nhúc nhích, bèn kêu rằng: "Hành giả, hành giả, tôi vì
Pháp mà đến đây, chớ chẳng phải vì y đâu!"
Huệ Năng nầy bèn
bước ra, ngồi xếp bằng trên tảng đá. Huệ Minh làm lễ, nói rằng: "Mong ơn
hành giả nói pháp cho tôi nghe."
Huệ Năng nầy
nói: "Ông vì pháp mà đến đây, thì khá dứt hết trần duyên, chớ sanh một
niệm tưởng, tôi sẽ nói rõ Phật pháp cho Ông nghe."
Lẳng lặng một
hồi lâu, Huệ Năng nầy nói: "Chẳng nghĩ việc lành, không nghĩ điều dữ,
chính khi ấy cái gì là bản lai diện mục của Thượng Toạ Minh?"
Huệ Minh nghe
nói rồi, liền đại ngộ.
Huệ Minh lại
hỏi: "Ngoài lời nói và ý chỉ diệu mầu Ngài vừa giảng, còn có ý chỉ vi diệu
nào nữa chăng?"
Huệ Năng nầy
nói: "Điều tôi nói với ông đó chẳng phải là điều vi diệu (mật). Nếu ông
phản chiếu, thì cái vi diệu ấy (mật) ở ngay nơi ông."
Huệ Minh nói:
"Tôi tuy ở tại Hoàng Mai, nhưng thiệt chưa xét biết cái Diện mục của mình.
Nay nhờ hành giả chỉ dạy, tỷ như người uống nước, lạnh nóng tự mình hay. Nay
hành giả tức là thầy của Huệ Minh vậy."
Huệ Năng nầy
nói: "Nếu như thế, thì tôi cùng ông đồng thờ một thầy là đức Hoàng Mai.
Hãy khéo tự hộ trì!"
Huệ Minh lại
nói: "Nay và sau Huệ Minh phải đi xứ nào?"
Huệ Năng nầy
nói: "Gặp Viên thì ngừng lại, gặp Mông thì ở đó."
Minh làm lễ rồi
giã từ. ./.
---------—]–-------
0 nhận xét:
Đăng nhận xét