Chủ Nhật, 6 tháng 11, 2016

CON ĐƯỜNG TẦM SƯ HỌC ĐẠO CỦA NGÀI LỤC TỔ HUỆ NĂNG

CON ĐƯỜNG TẦM SƯ HỌC ĐẠO CỦA NGÀI LỤC TỔ HUỆ NĂNG


Ngôi vị Lục Tổ không phải dễ thừa kế, đảm trách. Vì sao vậy? Vì có rất nhiều người muốn giết Ngài. Ngay cả đệ tử của Ngài là Chí Triệt cũng tìm cách giết hại Ngài. Vì thế Ðại sư sau khi đắc pháp đã tỵ nạn mười sáu năm trong nhóm thợ săn. Thậm chí sau khi kiến lập Pháp đàn tại Nam Hoa Tự, vẫn còn có ngoại đạo công khai muốn giết Ngài. Cho nên Ðại sư chạy lên núi ẩn trong núi đá toạ thiền.
Lục Tổ Ðại sư từ đâu mà có danh hàm Lục Tổ? Ðiều này bắt đầu từ Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma. Bồ Ðề có nghĩa là Giác, Ðạt Ma có nghĩa là Pháp. Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma là Tổ thứ hai mươi tám tại Ấn Ðộ, nhưng tại sao Ngài không ở Ấn Ðộ làm Tổ mà đi đến Trung Hoa làm gì? Vì xưa kia Phật đã thọ ký: Ðến đời Tổ thứ hai mươi tám, Ðại thừa Phật pháp sẽ truyền đến Trung Quốc. Do nhân duyên như thế, Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma ngồi thuyền đến Trung Hoa truyền đạo. Nhưng lúc đó Phật Pháp tại Trung Quốc, dường như có dường như không, bởi vì chỉ làm công tác bên ngoài như tụng kinh, nghiên cứu kinh điển, giảng kinh v.v.., ngay cả việc bái sám cũng không có. Ðương thời các học giả đều cho Phật giáo như là một loại học vấn để nghiên cứu thảo luận.
Các đạo lý mà Phật giáo nói đều phải y theo mà tu hành. Nhưng thời đại Nam Bắc triều của Trung Hoa lúc đó không có người nào chân chánh tu hành toạ thiền, vì sợ khổ cực.
Tổ sư Ðạt Ma nhìn thấy căn tánh Ðại thừa ở Trung Hoa đã chín muồi, bèn không ngại gian khổ, đường sá xa xôi, đem Phật pháp Ðại thừa đến Trung Quốc. Nhưng lúc đó vì ngôn ngữ không thông, người Trung Hoa gọi Ngài là "Ma-la-sát." Trẻ con nhìn thấy gương mặt Ngài với bộ râu dài đều hoảng sợ chạy mất. Người ta cho rằng Ngài đến để bắt trẻ con vì thế không cho trẻ con đến gần Ngài.
Sau đó Tổ sư Ðạt Ma đến Nam Kinh nghe Pháp sư Thần Quang giảng Kinh, nhìn thấy cảnh giới thù thắng: "Chư thiên rải hoa cúng dường, dưới đất sen vàng hiện ra." Cảnh giới này chỉ có người đã đắc Ngũ nhãn Lục thông mới thấy được. Sau khi giảng Kinh xong, là đến phần thỉnh pháp, hỏi pháp, Tổ sư Ðạt Ma hỏi:
–Pháp sư! Ông ở đây làm gì?
Thần Quang trả lời:
–Tôi ở đây giảng Kinh.
–Ông giảng Kinh làm gì?
–Tôi giảng Kinh, đưa người liễu ngộ sinh tử.
–Làm sao có thể liễu ngộ được sanh tử? Kinh mà ông giảng đều là giấy trắng mực đen, ông dùng cái gì mà có thể giúp người liễu đoạn sanh tử ?
Thần Quang bị hỏi không có cách nào trả lời, vì thế xấu hổ mà tức giận. Tuy Pháp sư Thần Quang giảng kinh được chư thiên rải hoa cúng dường nhưng vẫn còn tính nóng giận như vậy. Vì thế tôi nói Phật Pháp đương thời dường như có dường như không. Pháp sư Thần Quang tức giận liền cầm lấy xâu chuỗi niệm Phật làm bằng sắt nói:
–Ông dám huỷ báng pháp à!
Nói xong liền dùng xâu chuỗi đánh vào mặt Ðạt Ma. Tổ sư Ðạt Ma tuy biết võ thuật, nhưng không ngờ Thần Quang lợi hại như thế, nói không lại liền động võ, kết quả bị đánh gãy hai cái răng. Ngài nuốt hai cái răng vào bụng, không nói một lời liền bỏ đi.
Trên đường đi, Ngài gặp con chim Anh Vũ bị nhốt trong lồng. Chim Anh Vũ còn thông minh hơn Thần Quang vì biết Bồ Ðề Ðạt Ma là một vị Tổ Sư, nên thưa với Ngài rằng:
–Tây lại ý, Tây lại ý, thỉnh Ngài dạy cho chúng con cách thoát ra khỏi lồng.
Ðạt Ma đến Trung Hoa chưa gặp được tri âm, nay Anh Vũ này lại là tri âm của Ngài. Nghe chim thỉnh giáo mình như vậy, Ðạt Ma rất vui vẻ dạy cho nó một bí quyết: "Muốn thoát khỏi lồng, hai chân duỗi thẳng, đôi mắt nhắm nghiền, đây là diệu kế, giúp con thoát lồng."
Anh Vũ sau khi hiểu được phương pháp thoát lồng, bèn thưa: "Nay con đã hiểu rồi, cám ơn Ngài chỉ dạy." Anh Vũ nhìn thấy người chủ từ xa trở về, đợi người chủ đến gần, nó liền sử dụng phương pháp đó. Mỗi ngày người chủ trở về đều đến chơi với con chim yêu quý để tiêu sầu giải muộn, nay nhìn thấy Anh Vũ yêu quý nằm bất động trong lồng liền rất lo lắng, bèn mở cửa lồng đem Anh Vũ để nơi lòng bàn tay: "Ồ! thân chim vẫn còn nóng." Vì chim giả chết nên khí nóng vẫn còn. Người chủ vừa mở nắm tay ra Anh Vũ liền bay đi! Kế thoát lồng thật hiệu nghiệm.
Chúng ta hiện nay vẫn còn ở trong lồng, đừng nên cho rằng mình đang tự do. Muốn ăn thì ăn, muốn uống thì uống, không giữ gìn quy củ cho là tự do. Ðiều này thật là mê muội vì đã hiểu một cách sai lầm về tự do. Tự do chân chánh là sanh tử tự do, muốn bay lên trời thì lên trời, muốn độn thổ xuống đất thì độn thổ; có được những bản lãnh như thế mới gọi là tự do chân chánh.
Pháp sư Thần Quang đánh gãy hai cái răng của Hoà Thượng mặt đen, nhưng thấy Hoà Thượng Ấn Ðộ không có phản ứng gì, bèn cho rằng mình thắng. Nhưng không lâu sau đó quỷ vô thường đến gặp Pháp sư nói:
– Pháp sư, hôm nay mạng sống của ngài đã hết. Vua Diêm La sai tôi đến mời ngài đi.
– Tôi mà cũng phải chết à? Tôi giảng Kinh được trời rãi hoa cúng dường, đất hiện ra hoa sen vàng mà còn không thể dứt vòng sanh tử thì thế gian này còn có ai có thể dứt vòng sanh tử?
– Có chứ! Chính là Ngài Hoà Thượng mặt đen mà bị ông đánh gãy hai cái răng đó. Diêm Vương không những không cai quản được số mạng của Ngài mà mỗi ngày còn phải hướng về Ngài khấu đầu đảnh lễ.
– Quỷ đại ca! Bạn có thể chờ tôi một chút được không? Xin nói với Diêm Vương dùm tôi một tiếng, xin cho tôi một thời gian ngắn để tôi đi học pháp môn liễu đoạn sanh tử của Ngài Hoà Thượng mặt đen.
–Nếu ông thật có lòng thành như vậy thì việc này không phải không có thể linh hoạt giải quyết.
Thần Quang nghe nói rất vui mừng, không kịp mang dép, chân đất đuổi theo Tổ sư Ðạt Ma. Trên đường gặp chim Anh Vũ đã được Ngài Ðạt Ma giúp cho thoát khỏi lồng. Anh Vũ nói cho Thần Quang biết Ngài Ðạt Ma đã giúp nó như thế nào. Thần Quang đi theo sau lưng Tổ Sư, nhưng Tổ không để ý đến. Thần Quang đi theo cho đến núi Hùng Nhĩ ở Lạc Dương (Chùa Thiếu Lâm, Tung Sơn, Hà Nam). Tổ sư Ðạt Ma ở đó diện bích toạ thiền, Ngài ngồi suốt chín năm, Thần Quang cũng quỳ đủ chín năm. Một ngày kia tuyết lớn, tuyết phủ đến hông. Ðạt Ma nói:
– Tuyết lớn như vậy ông quỳ đó làm gì?
– Bạch Tổ Sư, con muốn liễu đoạn sanh tử. Lúc trước con giảng Kinh không thể liễu đoạn sanh tử, nay kính xin Tổ Sư truyền dạy cho con pháp môn liễu đoạn sanh tử.
– Ngươi nhìn, trời hiện rơi cái gì?
– Bạch Tổ Sư, trời đang rơi tuyết.
– Tuyết có màu gì?
– Bạch Tổ Sư, tuyết màu trắng.
– Ngươi đợi đến lúc nào mà trời rơi tuyết màu đỏ thì lúc đó ta sẽ truyền dạy pháp môn liễu đoạn sanh tử cho ngươi. Nếu trời không rơi tuyết đỏ thì ngươi đừng nên hy vọng ta truyền dạy cho. Ngươi là một kẻ xuất gia hung ác như vậy, dùng xâu chuỗi niệm Phật bằng sắt đánh gãy hai cái răng của ta, ta không báo thù cũng là từ bi lắm rồi, làm sao lại có thể truyền pháp cho ngươi được?
Ðạt Ma đưa ra vấn đề khó khăn như vậy để khảo nghiệm Thần Quang, nhưng Thần Quang đã giải quyết được. Thần Quang nhìn thấy trên tường có một thanh giới đao của người tu đạo, dùng dự bị lúc phạm giới thì đem đao chặt đứt đầu mình chớ không để phạm đến giới thể. Thần Quang liền lấy thanh đao đó xuống chặt đứt cánh tay mình, máu rơi đầy mặt đất đã làm tuyết trắng biến thành tuyết đỏ. Thần Quang liền bụm lấy một nắm tuyết đỏ đem dâng đến trước mặt Ngài Ðạt Ma và nói:
– Bạch Tổ Sư, Ngài xem, đây chính thật là tuyết đỏ.
Ðiều này vốn đã ở trong dự liệu, chỉ vì muốn thử thách chân tâm của Thần Quang, mà Ðạt Ma mới đưa ra vấn đề thử thách này. Vì thế Ngài rất hoan hỷ nói:
– Ta đến Trung Hoa thật không có uổng công, gặp phải ngươi là người chân thành cầu pháp tu hành như vậy, ngay cánh tay của chính mình cũng bỏ đi để cầu pháp, quả là có tâm thành.
Sau đó Ngài Ðạt Ma mới đem pháp môn dĩ tâm ấn tâm, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật truyền cho Thần Quang. Sau khi Ngài Ðạt Ma giảng xong pháp môn, Thần Quang liền sanh tâm phân biệt nói:
– Con chặt đứt cánh tay, rất đau nhức, tâm cũng rất nhức nhối, xin Tổ Sư an tâm cho con.
– Ðem tâm của ông ra đây, ta mới có thể giúp ông an tâm!
Thần Quang bèn đi tìm tâm của mình, Ðông Tây Nam Bắc, trên trời dưới đất, tìm hoài mà không thấy tâm của mình. Thần Quang nói:
– Con tìm không ra.
– Ta đã an tâm cho ông rồi.
Thần Quang lập tức hoát nhiên đại ngộ. Vì thế Thần Quang nói:
Vạn pháp quy nhứt, nhứt quy hà xứ ?
Thần Quang bất minh cản Ðạt Ma.
Hùng Nhĩ sơn tiền quỵ cửu tái,
Chỉ cầu nhứt điểm đoá Diêm La.
Vạn pháp quy nhứt, vậy nhứt quy về đâu? Thần Quang không rõ nghĩa lý của chữ "hợp," vì thế đuổi theo Ðạt Ma, tại núi Hùng Nhĩ quỳ suốt chín năm, chỉ cầu Tổ Sư chỉ điểm cách liễu đoạn sanh tử, thoát khỏi Diêm Vương.
Thần Quang sau khi được Tổ sư Ðạt Ma truyền pháp, liền đổi tên là Huệ Khả, tức là trí huệ đầy đủ, thiện căn viên mãn. Ðại sư Huệ Khả hỏi Tổ sư Ðạt Ma:
–Bạch Tổ Sư, ở Ấn Ðộ Ngài có đồ đệ đắc pháp chưa? Ở Ấn Ðộ, khi truyền pháp có đem ca sa, y, bát truyền cho đồ đệ để làm bằng cớ không?
–Không có, ở Ấn Ðộ ta truyền pháp không có đem ca sa y bát làm vật y cứ, vì tâm người Ấn Ðộ rất thẳng thắn, tu hành đắc đạo liền nói đắc đạo, chỉ cần có người chứng minh đắc đạo là đủ. Nếu chưa được ấn chứng, họ sẽ không nói là: tôi đã đắc đạo chứng quả, tôi đã chứng A La Hán, hoặc tôi đã là Bồ Tát. Người Trung Hoa không giống như vậy. Ở Trung Quốc, người có căn tánh Ðại thừa cũng rất nhiều, nhưng người nói vọng ngữ cũng không ít, tu hành chưa thành tựu đạo nghiệp mà khoe khoang đã thành; chưa chứng quả cũng tự nói đã chứng quả, vì thế cần phải dùng ca sa y bát để chứng minh. Cho nên nay ta truyền ca sa y bát cho ông, ông nên cẩn thận giữ gìn.
Tổ sư Ðạt Ma đến Trung Quốc, từng bị đầu độc sáu lần, vì đương thời Bắc Nguỵ có hai vị Pháp sư muốn hại Ngài, một vị là Bồ Ðề Lưu Chi, một vị là Luật sư Quang Thống. Họ rất đố kỵ Ngài, đã làm ra vài món đồ chay, trong đó có chất độc cực mạnh đem đến cúng dường Ngài. Ngài biết trong thức ăn có độc nhưng vẫn ăn một cách bình thường. Ăn xong kêu người đem một cái mâm lại, Ngài mửa vào mâm một đống rắn. Thì ra chất độc đã biến thành rắn. Bồ Ðề Lưu Chi thấy độc không thể giết được Ngài, không hiểu vì duyên cớ gì. Vì thế lần thứ hai bỏ liều lượng thuốc độc gấp đôi. Ðạt Ma cũng ung dung thọ dụng, ăn xong liền ngồi tại một tảng đá lớn, phun thuốc độc ra, sức mạnh của thuốc độc đã làm bể tan tảng đá. Sau đó liên tiếp thêm bốn lần hạ độc nữa nhưng đều không thể hại được Ngài.
Một ngày nọ, Tổ sư Ðạt Ma nói với Ðại sư Huệ Khả rằng:
–Ta đến Trung Quốc, để độ chúng sanh có căn tánh Ðại thừa. Nay pháp đã truyền, ta đã có người kế thừa, giờ viên tịch cũng đã đến.
Sau khi Tổ sư Ðạt Ma viên tịch, chúng đệ tử dùng quan tài bọc xác Ngài đem chôn. Nhưng lúc ấy, Bắc Nguỵ có một sứ quan tên là Tống Vân, tại vùng Thông Lãnh, trên đường đi gặp Tổ sư Ðạt Ma. Tổ Sư, tay cầm dép, nói với Tống Vân rằng:
– Quốc Vương nước ông hôm nay băng hà, ông nên mau mau trở về.
Tống Vân hỏi:
–Ðại sư, Ngài đi đâu?
–Ta trở về Ấn Ðộ.
–Ðại sư, Ngài đã truyền pháp cho ai?
–Bốn mươi năm sau tại Trung Quốc.
Sau đó Tống Vân trở về đến Bắc Nguỵ đem việc này kể cho mọi người nghe, nhưng không ai tin. Vì thế mọi người mới quật mồ của Tổ sư Ðạt Ma ra xem, trong quan tài chỉ còn chiếc dép, ngoài ra không có cái gì khác. Như vậy Tổ sư Ðạt Ma đi đâu? Mọi người cũng không ai biết.
Lúc Tổ sư Ðạt Ma sắp viên tịch, Ngài nói:
–Ta đến Trung Hoa truyền pháp cho ba người, Ðại sư Huệ Khả được phần tuỷ, Thiền sư Ðạo Dục được phần xương, Tỳ kheo ni Ðạo Tế (tức Tỳ kheo ni Tổng Trì) được phần thịt.
Tổ sư Huệ Khả lúc bốn mươi tuổi gặp Sơ Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma, sau khi đắc pháp bèn ẩn trốn bốn mươi năm, vì đương thời Bồ Ðề Lưu Chi và Luật sư Quang Thống, chuyên gây khó dễ với các đệ tử của Tổ sư Ðạt Ma, thậm chí gặp là muốn giết. Bồ Ðề Ðạt Ma đã bị hai vị ấy dùng thuốc đầu độc, huống chi là đệ tử của Ngài! Ðại sư Huệ Khả nghe theo lời Thầy dạy nên đã ẩn núp, trốn tránh những người gây khó dễ này. Cho đến lúc Ðại sư Huệ Khả tám mươi tuổi, Ngài mới bắt đầu hoằng dương Phật pháp, giáo hoá chúng sanh. Cho đến khi gặp Tam Tổ Tăng Xán, sau khi phú pháp, dặn dò Tam Tổ phải cẩn thận bảo hộ giữ gìn y bát làm chứng cứ, và cần phải ẩn trốn để tránh những sự tật đố và bức hại.
Ðại sư Huệ Khả lúc đó giả dạng điên khùng, nhưng khi gặp chúng sanh hữu duyên, Ngài liền phổ độ giáo hoá họ. Tuy Ngài giả dạng điên khùng, nhưng vì có duyên với chúng sanh cho nên có rất nhiều người tin tưởng Ngài. Tuy Ngài đã giả dạng điên khùng, nhưng bè nhóm của Bồ Ðề Lưu Chi vẫn đem lòng ganh ghét, bèn đi đến quan phủ vu cáo Ðại sư Huệ Khả, nói Ngài là yêu quái mê hoặc dân chúng, để dân chúng sùng bái. Hoàng đế đương thời lại cả tin bèn hạ thánh chỉ, ra lệnh quan phủ bắt Huệ Khả thẩm vấn:
–Ngươi là người hay là yêu quái?
Huệ Khả Ðại sư trả lời:
– Tôi là yêu quái.
Viên quan thẩm vấn vừa nghe Ngài nói như vậy, liền biết Ngài bị oan ức, nên hỏi lại:
– Ông nên nói cho rõ ràng, ông là người hay yêu quái?
– Tôi thiệt đúng là yêu quái.
Vì quốc pháp không cho phép yêu quái mê hoặc thế gian, cho nên đành phải tâu lên Hoàng đế, đem Ngài đi chém để răn chúng. Ôi, thế gian này có chân lý không vậy! Ngài là Tổ Sư đời thứ hai mà quan phủ nói Ngài là yêu tinh.
Ðại sư Huệ Khả rơi nước mắt, nói với đồ chúng rằng:
– Quả báo này ta phải thọ thôi!
Ngài cảm thấy thương tâm là vì Phật Pháp lúc Ngài còn tại thế, chưa được người ta hiểu biết rộng rãi. Ngài nói Phật Pháp đến thời Tứ Tổ sẽ rơi vào danh tướng, có danh có tướng, liền chấp vào danh tướng. Khóc xong Ngài liền nói với tên đao phủ:
– Ngươi lại giết ta đi!
Ðao phủ cầm đao chém đầu Ngài nhưng lạ thay lại không có máu tuôn ra, chỉ tuôn ra dòng nước trắng như sữa. Ðây là lúc người tu hành đạt đến thể thuần dương, tất cả máu huyết trong người đều biến thành màu trắng. Viên quan chấp hành nhìn thấy tình hình như thế bèn y như sự thật tâu lên hoàng đế:
–Người đó thiệt là yêu quái, tôi đã giết ông ta nhưng không thấy máu chảy ra, chỉ chảy ra dòng nước trắng như sữa, nhưng gương mặt lúc chết giống như lúc sống, điều này chứng minh ông ta chính thiệt là yêu quái.
Nhưng Hoàng đế biết rằng đã giết lầm một bậc Thánh nhân, vì ở Ấn Ðộ Tổ thứ hai mươi bốn là Tôn giả Sư Tử, khi bị chặt đầu thì không chảy máu mà chỉ chảy nước sữa màu trắng. Ðiều này chứng minh nhân thể thuần dương vô âm, vì vô lậu không có vô minh nên âm đều biến thành dương.
Hoàng đế sau khi biết Ðại sư Huệ Khả là vị nhục thân Bồ Tát, bèn sanh lòng sám hối: "Có một vị Bồ Tát ở nước ta, mà Trẫm không biết bảo hộ lại đem Ngài giết đi". Bèn ra lệnh văn võ đại thần đều phải quy y Nhị Tổ Huệ Khả. Tuy Ngài chết đi nhưng vẫn có thể thâu được một số đệ tử như thế.
Ðời Tuỳ, Tam Tổ Tăng Xán, không ai biết thân thế tánh danh của Ngài. Lúc Ngài gặp Nhị Tổ, toàn thân Ngài đều là ghẻ lác giống như người mắc bệnh phong cùi. Nhị Tổ hỏi:
–Ông từ đâu đến đây? Ðến đây làm gì?
–Con đến quy y Hoà Thượng cầu học Phật pháp.
–Ông mắc bệnh như vậy thật không thanh tịnh, làm sao có thể học được Phật pháp?
Tam Tổ bèn thưa:
–Con là người có bệnh, mà Ngài là một bậc Hoà Thượng, nhưng tâm Ngài và con không có gì sai khác.
Nhị Tổ nghe nói liền biết người này không phải tầm thường, liền nói:
–Không cần nói nữa, ta đã biết rồi.
Nói xong bèn truyền pháp cho Tam Tổ và dạy Tam Tổ phải ẩn trốn để tránh sự sát hại của dư đảng Bồ Ðề Lưu Chi:
–Không nên để cho người biết ta đã truyền pháp cho ông.
Vì thế Tam Tổ Tăng Xán học cách của Nhị Tổ, giả dạng điên khùng, âm thầm đi các nơi giáo hoá chúng sanh. Lúc đó gặp lúc Bắc Chu Vũ Ðế tiêu diệt Phật pháp nên Ngài ẩn cư trong núi hơn mười mấy năm. Trên núi vốn có rất nhiều sài lang hổ báo, nhưng khi Ngài vừa đến ở đây các loài động vật đó đều bỏ đi hết.
Sau khi truyền pháp cho Tứ Tổ Ðạo Tín, Tam Tổ bèn thiết Thiên Tăng Trai (thỉnh một ngàn vị Tăng thọ trai cúng dường). Trai đàn hoàn mãn, Ngài bèn nói với đại chúng:
–Các ông cho rằng kiết già ngồi chết là phương pháp hay nhứt, nay ta cho các ông xem một cách chết đặc biệt. Sự sanh tử của tôi rất tự do, không bị hạn chế của thời gian.
Nói xong, tay trái cầm lấy cành cây, chân giơ lên như thế mà an nhiên thị tịch. Lúc Ngài viên tịch, là bao nhiêu tuổi, là người ở địa phương nào, thân thế ra sao, đều không ai biết.
Tứ Tổ Ðạo Tín, lúc nhỏ theo Tam Tổ Tăng Xán xuất gia học đạo, sáu mươi năm ngồi không nằm, đôi mắt thường nhắm, dụng công biện đạo, không phải Ngài ngủ. Khi Ngài mở mắt, người thường đều giật mình kinh sợ giống như bị động đất. Tại sao vậy? Không ai biết được. Nhưng đó chính là uy đức của Ngài.
Ðường triều Trinh Quán năm thứ mười bảy (công nguyên năm 644), Thái Tông phái sứ thần mời Ngài đến hoàng cung để cúng dường, lễ Ngài làm thầy. Nếu như Pháp sư đời nay, Hoàng đế không mời cũng tìm cách gặp Hoàng đế, dựa dẫm vào, huống chi nay được lễ bái cung thỉnh? Nhưng Tứ Tổ đã từ chối, lựa lời nói:
–Tôi niên kỷ đã lớn, đi cũng đi không nổi. Tuổi già sức yếu, cho nên không thể đi đến Kinh thành được.
Sứ thần trở về tâu lên Hoàng đế, Hoàng đế nói:
–Ngươi quay về nói với Tứ Tổ, bất luận là Ngài lớn tuổi đến đâu đi nữa, ta vẫn mời Ngài vào hoàng cung cúng dường.
Sứ giả đành đi đến chỗ Tứ Tổ, thưa với Ngài rằng:
–Hoàng thượng nói bất luận là Ngài già yếu đến đâu, cũng dùng kiệu để rước Ngài vào hoàng cung để cúng dường.
Ngày xưa không có máy bay, không giống như bây giờ giao thông rất tiện lợi. Tứ Tổ trả lời:
–Không được, tôi đã quá già, nếu như ông nhất định muốn tôi đi, thì chặt đầu tôi mà đem đi. Chớ tâm của tôi dù thế nào đi nữa cũng nhất quyết không đi.
Sứ giả không có cách nào, chỉ đành trở về đem sự việc như thế báo cáo hoàng đế:
–Vị Hoà Thượng đó thật là kỳ lạ, cũng không biết nhân tình thế thái. Ông ta nói dù chặt đầu ông ta, ông ta cũng không đến gặp bệ hạ.
–Ðược, khanh hãy đi đem đầu ông ta mang về đây.
Vua dùng một cái hộp, trong hộp có đựng một thanh gươm bén giao cho sứ thần và nói:
–Cầm lấy thanh gươm này, chặt đầu ông ta mang về đây.
Nhưng lúc sắp khởi hành, Hoàng đế lại nói với sứ thần:
–Dù thế nào đi nữa khanh cũng không được làm tổn thương đến vị Hoà Thượng đó.
Sứ thần hiểu rõ thâm ý của Hoàng đế, liền quay trở lại đến chỗ của Tứ Tổ và nói:
–Lão Hoà Thượng! Rốt cuộc Ngài có đi hay không? Nếu không đi, thanh gươm này sẽ dùng để chặt đầu Ngài, đem đầu Ngài đi gặp hoàng thượng.
Tổ sư Ðạo Tín nói:
–Tốt lắm! đầu của tôi có thể gặp hoàng thượng, đó là vinh dự của tôi, mời Ngài lại chặt đầu của tôi đi!
Sứ thần cầm thanh gươm làm điệu bộ như chặt đầu Tứ Tổ. Nhưng nhìn thấy Tứ Tổ quả nhiên giơ đầu ra chịu chém không chút sợ sệt, bèn bỏ gươm xuống, cất lại vào hộp. Tổ sư Ðạo Tín nhắm mắt chờ sứ thần chém đầu, nhưng chờ rất lâu mà không thấy động tĩnh, bèn tức giận la lên:
–Tại sao ngươi không chặt đầu ta.
Tình hình lúc này cũng không khác gì trường hợp của Nhị Tổ. Sứ thần nói:
–Nhà Vua sai tôi chỉ được nói như vậy, nhưng không được làm tổn hại đến Ngài.
Tổ sư Ðạo Tín nghe xong cười lớn nói:
–Nay ông đã biết, trên thế gian thiệt có người không sợ chết!
Tứ Tổ họ Tư Mã, xuất gia pháp danh Ðạo Tín, là một dòng họ có danh vọng thời bấy giờ. Từ nhỏ xuất gia học đạo, tại thế bảy mươi hai năm, sáu mươi năm lưng không dính chiếu, đã thành tựu cảnh giới bất khả tư nghì. Có lần Ngài đang ở trên núi tu đạo, có một đám giặc cướp bao vây thành khoảng hơn một trăm ngày, lương thực trong thành cùng với nước uống đều dứt tuyệt, khô kiệt. Ðại sư nhìn thấy tình hình như thế, bèn đến trong thành dạy tất cả quan quân và dân chúng tụng "Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Ða." Niệm không bao lâu, giặc cướp bèn rút lui, giếng nước đang khô cạn tự nhiên tràn ra những dòng nước ngọt, đây là một cảnh giới cảm ứng.
Lúc đó, Ngài dùng Phật nhãn quan sát, thấy núi Phá Ðầu ở Hà Bắc, có mây tía xoay quanh, bao trùm cả khu núi đó. Những vầng mây tía này là điều báo điềm lành, vì thế Ngài bèn đến trú ngụ tại ngọn núi này, và đổi tên núi là Song Phong Sơn.
Ngài giáo hoá những chúng sanh cang cường khó độ, mong cho họ bỏ ác làm lành, nhưng họ cứ y theo đường cũ tiếp tục làm ác, không nghe theo lời giáo hoá. Tứ Tổ nhẫn nại áp dụng các loại pháp môn phương tiện quyền xảo, khiến cho họ bỏ tà quy chánh. Trong hơn bốn mươi năm hoằng dương Phật pháp, Ngài giáo hoá chúng sanh nhiều vô số.
Một ngày nọ Tứ Tổ nói với đồ chúng rằng:
–Các ông phải làm cho ta một cái tháp, ta sắp đi rồi.
Khi Bảo tháp vừa xây xong, đời Ðường Vĩnh Huy năm thứ hai (công nguyên năm 651), ngày hai mươi bốn tháng chín nhuần, Tứ Tổ không bệnh mà viên tịch. Ðồ đệ của Ngài liền đặt Ngài vào trong Bảo tháp làm bằng đá. Bảo tháp vốn dùng khoá sắt khoá cẩn thận. Một năm sau đó, cửa tháp tự động mở ra, đồ chúng thấy Tứ Tổ vẫn đoan nhiên chánh toạ bên trong, sinh động giống như lúc sống, nhưng thịt thì đã khô. Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, nhìn thấy tướng hảo của Tứ Tổ như vậy rất hoan hỷ. Ngài bèn dùng vải dầu phết vàng, giữ gìn nhục thể của Tứ Tổ. Cho đến ngày nay nhục thể của Tứ Tổ vẫn còn lưu lại cho người đời lễ bái chiêm ngưỡng cúng dường.
Ðường triều Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, họ Châu, là người Hoàng Mai (huyện Hoàng Mai nay thuộc tỉnh Hồ Bắc, núi Song Phong thuộc huyện Hoàng Mai), bảy tuổi xuất gia, bái Tứ Tổ làm Thầy, mười ba tuổi thọ Sa di giới. Tánh tình hồn hậu ít nói, tuy các bậc đồng học nhiều lần ăn hiếp khinh thường, Ngài vẫn bình thản, xem như không có gì xảy ra. Ban ngày theo chúng công quả, việc gì cũng làm; ban đêm ngồi thiền nhiếp trì thân tâm, không nói chuyện thị phi, đi theo Tứ Tổ ba mươi năm tu học Phật pháp. Ngũ Tổ thân cao tám thước, tướng mạo kỳ đặc. Ngài trú trên ngọn núi Bằng Mậu, phía đông của núi Song Phong, vì thế đương thời gọi là "Ðông Sơn pháp môn." Có lần nhìn thấy một đám giặc cướp bao vây thành Hồ Bắc, ngăn chận tất cả đường xá giao thông, Ngũ Tổ từ Ðông Sơn đi vào trong thành. Lúc bọn giặc cướp trông thấy Ngài sợ hãi không còn hồn vía. Vì đám giặc cướp thấy không phải là Tổ Sư mà là vị Kim Giáp Kim Cang Vương Bồ Tát, tay cầm bảo khí, oai đức lẫm liệt, hào quang sáng ngời. Giặc cướp tứ tán rút lui, nhờ đó mà thành được giải vây.
Ðường Hàm Hanh năm thứ năm (công nguyên năm 674), Ngũ Tổ nói với đệ tử rằng:
–Các ông làm cho ta một ngôi tháp, ta sắp đi rồi.
Tháng sau vào ngày mười bốn, Ngài lại hỏi:
–Tháp đã chuẩn bị xong chưa?
Chúng đệ tử trả lời:
–Bạch Ðại sư, tháp đã xây xong rồi.
–Nhiều năm qua ta giáo hoá chúng sanh, độ hoá người có duyên, và phú pháp cho Lục Tổ Huệ Năng. Nay các ông có mười người là bậc pháp tự, hãy kiến lập đạo tràng, hộ trì Phật giáo, hoằng dương chánh pháp, giáo hoá chúng sanh.
Mười vị đại đệ tử tức là Thần Tú, Trí Thâm, Huệ Tạng, Huyền Ước, Lão An, Pháp Như, Trí Ðức, Nghĩa Phương, Huệ Năng và Lưu Chủ Bộ. Ngũ Tổ đưa tiễn mười vị này đi khắp các nơi giáo hoá chúng sanh.
Không lâu, Ngũ Tổ an toạ mà nhập Niết Bàn. Suốt bảy mươi bốn năm, rộng mở giáo pháp, đồ chúng rất đông, truyền y bát cho Ðại sư Huệ Năng.
Trên đây đã lược thuật Tây Thiên Tổ thứ hai mươi tám Bồ Ðề Ðạt Ma, đã đem pháp truyền vào phương Ðông, là Sơ Tổ Thiền tông Trung Quốc. Ðời đời nối tiếp, nhất phái đơn truyền, bẩm thừa chánh pháp nhãn tạng của Ðức Thích Ca Mâu Ni, cho đến sự tích của Ðức Lục Tổ Huệ Năng.
"Lục Tổ Pháp Bảo Ðàn Kinh lược tự," do Pháp Hải Thiền Sư, đệ tử đắc pháp của Lục Tổ, biên soạn, ghi lại sự tích sanh bình của Lục Tổ.
Ðại sư tên là Huệ Năng. Thân phụ của Ngài họ Lư, huý Hạnh Thao, thân mẫu của Ngài là Lý thị. Ngài sanh vào đời Ðường, niên hiệu Trinh Quán, năm thứ mười hai, nhằm năm Mậu Tuất, tháng hai, ngày mùng tám, giờ tý. Lúc sanh Ngài có một đạo hào quang chiếu lên hư không, lại có mùi thơm xông khắp cả nhà.
Trời vừa hửng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến xin viếng và gọi thân phụ Ngài mà nói rằng: "Nhơn có đứa nhỏ sanh ngày đêm qua, nên chúng tôi đến đặt tên giùm. Nên đặt trên chữ Huệ, dưới chữ Năng."
Thân phụ Ngài hỏi: "Sao gọi là Huệ Năng?"
Một vị tăng đáp: "Huệ nghĩa là đem pháp huệ mà thí cho chúng sanh, Năng nghĩa là làm được việc Phật."
Nói rồi hai vị tăng liền đi ra, chẳng biết đi xứ nào.
Ðại sư khi lọt lòng mẹ, không bú sữa, ban đêm có thần nhơn rưới nước cam lồ cho Ngài.
Ðến lớn hai mươi bốn tuổi, Ngài nhờ nghe Kinh mà ngộ đạo. Ngài đến viếng Ngũ Tổ Hoàng Mai mà cầu ấn khả.
Một ngày nọ, Huệ Năng đang bán củi, nghe một người khách tụng Kinh Kim Cang, nghe đến câu "ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm," liền lập tức khai ngộ.
Nghiêm phụ của Huệ Năng vốn ở xứ Phạm Dương, làm quan bị giáng chức đày về Lãnh Nam làm dân ở tại Huyện Tân Châu. Thân nầy bất hạnh, cha lại mất sớm, còn một mẹ già cô độc, phải dời nhà qua quận Nam Hải. Nhà nghèo túng, cay đắng trăm bề, phải lên núi đốn củi gánh về chợ bán.
Lúc ấy có một người khách mua củi, bảo Huệ Năng đem đến tiệm. Khách thâu củi, Huệ Năng nầy lãnh tiền rồi, bước ra ngoài cửa, thấy một người khách tụng kinh. Huệ Năng nầy nghe qua, tâm liền khai ngộ.
Vì nhà nghèo, Lục Tổ không được đi học, vì thế không biết chữ. Tuy Ngài không biết chữ, nhưng thiên tánh thông minh đỉnh ngộ, vừa nghe kinh văn nói: Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm liền lập tức khai ngộ, và hiểu rõ những cảnh giới từ trước đến nay chưa từng hiểu rõ.
Mới hỏi khách tụng kinh gì?
Khách đáp: "Kinh Kim Cang."
Huệ Năng lại hỏi: "Ở đâu đến mà trì tụng kinh ấy?"
Khách rằng: "Tôi từ chùa Ðông Thiền, huyện Hoàng Mai, xứ Kỳ Châu lại đây. Chùa ấy do Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Ðại sư chủ trì giáo hoá tại đó. Môn nhơn của Ngài có trên một ngàn người. Tôi đã đến chùa lễ bái nghe giảng và lãnh kinh ấy."
Lúc nghe nói có thánh địa mà hiện nay hơn ngàn người đang cùng nhau tu học Phật pháp, Ngài rất phấn khởi bèn hỏi người khách:
–Tôi nay phải làm sao đây? Tôi rất muốn đi đến đó học pháp. Lúc tôi nghe ông tụng Kinh Kim Cang, tôi đã hiểu rõ nghĩa lý của Kinh nên muốn đi cầu pháp nhưng tôi còn mẹ già không người săn sóc, tôi làm sao giải quyết việc này đây?
Vì Bồ Tát không cầu danh lợi, vì thế Lục Tổ không nói đến vị Ðại Bồ Tát đến giúp Ngài lúc này. Kinh văn chỉ đơn giản nói: Vì nhân duyên kiếp trước, có một vị khách tặng Huệ Năng mười lượng bạc. Ðây thật là một sự cúng dường rất lớn, vì Ngài một ngày đốn củi đem đến chợ bán chỉ được vài đồng. Tức là dù cho Huệ Năng trong ngàn ngày bán củi dành dụm tiền bạc cũng không thể nhiều hơn số bạc mà người khách biếu cho.
Vị khách khẩn khoản giục giã Ngài:
–Ông có tín tâm lớn như vậy, vừa nghe kinh văn liền khai ngộ, hiểu rõ nghĩa lý. Vậy thì nhanh lên! Hãy lập tức đi đến Hoàng Mai bái kiến Ngũ Tổ, điều này chắc chắc đối với ông rất ích lợi. Lập tức lên đường, không nên chậm trễ!
Huệ Năng nầy lo cho lão mẫu xong rồi, liền từ giả ra đi, chẳng đầy ba mươi ngày, tới huyện Hoàng Mai, vào làm lễ Ngũ Tổ.
Tổ Sư hỏi: "Ngươi là người phương nào, muốn cầu việc chi?"
Huệ Năng nầy đáp: "Ðệ tử là dân huyện Tân Châu xứ Lãnh Nam, ở phương xa đến đây lạy Tổ Sư, chỉ cầu thành Phật, chớ chẳng cầu chi khác!"
Tổ Sư nói: "Ngươi là người xứ Lãnh Nam, lại là giống man di, thế nào thành Phật được!"
Huệ Năng nầy nói: "Con người tuy có phân Nam Bắc, nhưng Phật tánh vốn không có Nam Bắc. Cái thân man di này cùng với Hoà Thượng tuy chẳng giống nhau, chớ cái tánh Phật nào có khác!"
Ngũ Tổ còn muốn nói chuyện nữa, nhưng thấy chúng môn đồ đứng vây hai bên tả hữu, nên bảo Huệ Năng theo chúng mà làm việc.
Huệ Năng nầy nói: "Kính bạch Hoà Thượng, tự tâm của đệ tử thường sanh trí huệ, chẳng lìa tự tánh, tức là phước điền, chẳng hay Hoà Thượng còn dạy làm công việc gì?"
Tổ Sư rằng: "Cái căn tánh của kẻ man di nầy thiệt lanh lợi. Ngươi chớ có nói nữa, hãy đi ra nhà sau."
Huệ Năng nầy ra đến nhà sau, có một người cư sĩ sai Huệ Năng nầy bửa củi giã gạo.
Trải qua tám tháng dư, một ngày kia, Tổ Sư xảy thấy Huệ Năng nầy, Ngài nói rằng: "Ta nghĩ chỗ tri kiến của ngươi dùng được, song sợ có kẻ ác hại ngươi, nên chẳng nói chuyện với ngươi, ngươi có biết chăng?"
Huệ Năng nầy nói: "Ðệ tử cũng hiểu ý Tôn sư, nên chẳng dám lên nhà trên, để người khác không biết."
Một ngày kia, Ngũ Tổ bảo các môn đồ tề tựu lại mà dạy rằng: "Ta nói cho chúng đệ tử rõ: Sự sống thác của người đời là việc lớn. Các ngươi trọn ngày chỉ cầu phước điền, chớ chẳng cầu ra khỏi biển khổ sống thác. Nếu tánh mình mê muội, thì phước nào cứu được!"
Các ngươi hãy lui về, mỗi người tự xét trí huệ của mình, lấy tánh Bát nhã của Bổn tâm mình mà làm một bài kệ, đem trình cho ta xem. Nếu hiểu rõ đại ý, ta sẽ truyền y pháp cho mà làm Tổ thứ sáu. Hãy đi cho mau, không được chậm trễ. Nếu để tâm suy lường độ lượng, ắt chẳng ích dụng. Phàm người thấy tánh, khi nghe pháp rồi thì phải thấy liền. Nếu được như thế, thì dầu hươi đao giữa trận cũng đặng thấy tánh."
Các môn đệ khi được lịnh rồi, đồng lui ra, lần lượt kêu nhau mà nói rằng: "Chúng ta chẳng nên lóng tâm nặn óc làm kệ để trình cho Hoà Thượng, vì có ích chi đâu! Thượng Toạ Thần Tú hiện làm thầy Giáo thọ, chắc người làm được. Chúng ta chẳng nên làm kệ mà uổng phí tâm lực."
Ðại chúng nghe nói yên lòng, đồng bảo từ đây sắp sau sẽ nương cậy Sư Thần Tú, cần gì phải làm kệ cho phiền phức.
Sư Thần Tú nghĩ thầm: "Các người ấy không trình kệ là vì nể ta là Giáo thọ, thầy của bọn chúng. Ta phải làm kệ đem trình cho Hoà Thượng. Nếu không trình thì Hoà Thượng đâu biết kiến giải của ta sâu cạn thế nào? Bổn ý ta trình kệ mà cầu pháp thì tốt, còn nhắm vào ngôi Tổ thì xấu, cũng giống như người phàm mong đoạt ngôi Thánh, có khác gì đâu! Bằng chẳng trình kệ rốt cuộc thì không đắc pháp. Thiệt rất khó, rất khó!"
Sư Thần Tú làm kệ xong mấy lần muốn đem trình, nhưng mỗi khi đến trước Tổ liêu thì trong lòng hoảng hốt, mồ hôi ra ướt cả mình, nghĩ rằng không kệ được. Trước sau trải qua bốn ngày, mười ba phen mà trình kệ chẳng được.
Thần Tú mới suy nghĩ chi bằng biên bài kệ lên vách hành lang, nếu thình lình Hoà Thượng xem thấy mà khen hay, thì ta ra lạy Ngài nói rằng bài kệ ấy là Thần Tú làm. Bằng Ngài nói bài kệ không dùng được thì thiệt uổng công ta ở núi mấy năm, thọ sự lễ bái của người, vậy còn tu đạo làm gì nữa?
Ðêm ấy đến canh ba, Thần Tú chẳng cho ai biết, tự mình cầm đèn, viết bài kệ lên vách hành lang phía nam, bày rõ chỗ thấy của tâm mình.
Kệ viết:
Thân thị Bồ đề thọ,
Tâm như minh cảnh đài,
Thời thời cần phất thức,
Vật sử nhạ trần ai.
Kệ rằng:
Thân ấy cây Bồ đề,
Tâm như tấm gương sáng..
Luôn luôn cần phủi sạch,
Chớ để vướng bụi trần.
Thần Tú chép bài kệ rồi, bèn trở về phòng, chẳng có ai hay biết. Thần Tú lại nghĩ: "Nếu ngày mai Ngũ Tổ thấy bài kệ mà vui mừng, tức là ta có duyên với pháp. Bằng Ngài nói không dùng được, ấy bởi tâm ta mê muội, nghiệp chướng kiếp trước còn nặng, nên chẳng kịp thời đắc pháp. Ôi! Thánh ý thật khó dò!"
Ở trong phòng, Thần Tú cứ lo nghĩ mãi, suốt đến canh năm ngồi nằm chẳng yên.
Ngũ Tổ đã biết trước Thần Tú chưa vào được cửa, chẳng thấy được tự tánh.
Trời sáng, Ngũ Tổ vời Lư Cung Phụng đến, bảo vẽ cảnh biến tướng và cái hoạ đồ nói trên nơi vách hành lang phía nam. Bổng thấy bài kệ ấy, Ngài bảo rằng: "Này quan Cung Phụng, thôi chẳng cần vẽ. Thiệt nhọc công ông ở phương xa đến đây. Kinh có nói rằng: ‘Phàm vật có hình tướng đều là giả dối.’ Vậy hãy để bài kệ ấy cho người trì tụng. Cứ y theo bài kệ ấy mà tu hành, thì khỏi đoạ vào đường ác. Y theo bài kệ ấy mà tu hành, thì có ích lợi lớn."
Ngũ Tổ dạy các môn đồ thắp hương lễ kính, bảo tất cả hãy tụng bài kệ ấy thì đặng thấy tánh. Các môn đồ tụng kệ đều khen: "Hay thay!"
Ðến canh ba, Ngũ Tổ kêu Thần Tú vào trong thất, hỏi rằng: "Bài kệ ấy phải ngươi làm chăng?"
Thần Tú nói: "Thật là con làm, nhưng kẻ đệ tử chẳng dám vọng cầu Tổ vị, chỉ mong Hoà Thượng từ bi xem coi đệ tử có chút trí huệ nào chăng?"
Ngũ Tổ nói: "Ngươi làm bài kệ ấy, tỏ ra chưa thấy Bổn tánh. Ngươi mới tới thềm cửa, chưa được vào trong nhà. Cứ như chỗ thấy hiểu ấy mà tìm Vô Thượng Bồ Ðề, thì rốt cuộc không thể đạt được. Vô Thượng Bồ Ðề là hễ vừa nghe, liền biết Bổn tâm và thấy Bổn tánh của mình, biết rằng Bổn tánh chẳng sanh chẳng diệt. Nhận ra Bổn tâm rồi, thì luôn luôn niệm niệm, tự thấy rằng vạn pháp đều viên dung, không ngưng trệ. Một pháp, mà hiểu thấu chơn tướng, thì tất cả các pháp cũng đều hiểu thấu chơn tướng. Muôn cảnh đều phát sinh từ cảnh giới "như như bất động", nên thấy muôn cảnh tự nó đều như như. Tâm mình, cũng vậy, như như bất động. Tâm như như đó mới là chơn thật. Thấy như thế, mới là tự tánh Vô Thượng Bồ Ðề vậy.
Ngươi hãy lui ra, suy nghĩ một hai ngày, rồi làm bài kệ khác đem lại cho ta xem. Nếu bài kệ của ngươi vào đặng cửa, ta sẽ truyền y pháp cho."
Thần Tú đảnh lễ lui ra. Trải qua mấy ngày, Thần Tú làm kệ chẳng xong thì trong lòng hoảng hốt, thần ý bồi hồi dường như trong mộng, đi đứng nằm ngồi chẳng yên vui.
Cách hai ngày có một đồng tử đi ngang qua phòng giã gạo, xướng đọc bài kệ ấy. Huệ Năng nầy nghe qua, biết bài kệ ấy chưa thấy Bổn tánh. Tuy ta chưa được Ngũ Tổ chỉ dạy, chớ đã sớm biết đại ý, mới hỏi đồng tử rằng: "Tụng bài kệ gì vậy?"
Ðồng tử đáp: "Người man di nầy không hay biết chi hết. Ðại sư nói sự sống thác của người thế gian là việc lớn. Vì muốn truyền y bát, nên Ngài dạy các môn đồ, mỗi người làm một bài kệ đem trình cho Ngài xem. Nếu ai hiểu đại ý, Ngài sẽ truyền y bát cho, đặng làm Tổ thứ sáu. Thượng Toạ Thần Tú có biên một bài kệ Vô Tướng ở vách hành lang phía nam. Ðại sư dạy mỗi người đều phải tụng. Nếu y theo kệ ấy mà tu hành, thì khỏi đoạ vào đường ác. Y theo bài kệ ấy mà tu hành, thì có ích lợi lớn."
Huệ Năng nầy nói: "Tôi cũng muốn tụng bài kệ ấy, để kết nhơn duyên về đời sau. Nầy thượng nhơn, tôi ở đây giã gạo đã trên tám tháng, mà chưa từng ra trước Tổ đường, mong thượng nhơn dẫn tôi đến trước bài kệ đặng lễ bái."
Ðồng tử dẫn ta đến trước bài kệ đặng lễ bái. Ta nói: "Huệ Năng không biết chữ, xin thượng nhơn đọc giùm." Khi ấy có quan Biệt Giá ở Giang Châu, họ Trương tên Nhật Dụng, cất tiếng đọc lớn.
Huệ Năng nầy nghe rồi, bèn nói: "Tôi cũng có một bài kệ, mong ơn quan Biệt Giá chép giùm."
Biệt Giá nói: "Ngươi cũng biết làm kệ nữa sao? Việc này thật hiếm có!"
Huệ Năng nầy ngó quan Biệt Giá mà nói: "Muốn học đạo Vô Thượng Bồ Ðề, thì chẳng nên khinh dễ hàng sơ học. Có kẻ dưới thấp mà thường phát sanh trí huệ rất cao, có người trên cao mà thường thường chôn lấp ý trí của mình. Nếu khinh khi người, ắt có tội vô lượng vô biên."
Biệt Giá nói: "Ngươi hãy ngâm kệ đi, ta chép giùm cho. Nếu ngươi đắc pháp, thì phải độ ta trước. Chớ quên!"
Huệ Năng nầy ngâm kệ rằng:
Bồ đề vốn không cây,
Gương sáng cũng chẳng đài.
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào vướng trần ai?
Bài kệ ấy chép rồi, cả thảy đồ chúng đều kinh hãi, không ai mà chẳng xuýt xoa. Mọi người kêu nhau mà nói: "Lạ thay! Chẳng đặng xét người bằng diện mạo. Tại sao bấy lâu chúng ta có thể sai khiến vị Bồ Tát xác phàm ấy!"
Ngũ Tổ thấy chúng nhơn kinh ngạc và lấy làm lạ, e có kẻ muốn ám hại, Ngài mới lấy giày xoá hết bài kệ mà nói rằng: "Cũng chưa thấy tánh." Ðồ chúng đều cho là phải.
Ngày kế Ngũ Tổ lén đến phòng giã gạo, thấy Huệ Năng nầy mang đá nơi lưng mà giã gạo. Ngài nói rằng: "Người cầu đạo, vì pháp quên mình, phải như thế sao!"
Ngũ Tổ mới hỏi: "Gạo trắng chưa?"
Huệ Năng nầy đáp: "Gạo trắng đã lâu, chỉ còn thiếu sàng."
Tổ lấy gậy gõ cối ba lần, rồi bỏ đi.
Huệ Năng nầy hiểu ý Tổ Sư, đến canh ba liền vào thất.
Ngũ Tổ lấy cà sa trùm kín cả Ngài và ta, chẳng cho ai thấy, rồi nói Kinh Kim Cang cho ta nghe, đến câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm." Nên không trụ vào chỗ nào mà sanh tâm mình.
Huệ Năng nầy ngay lời đó đạt đại ngộ, biết rằng cả thảy muôn pháp chẳng lìa tánh mình, mới bạch với Tổ Sư rằng:
Nào dè tánh mình vốn tự thanh tịnh,
Nào dè tánh mình vốn không sanh diệt,
Nào dè tánh mình vốn tự đầy đủ,
Nào dè tánh mình vốn không lay động,
Nào dè tánh mình có thể sanh ra muôn pháp!
Tổ Sư biết ta tỏ ngộ Bổn tánh, bảo Huệ Năng rằng: "Nếu chẳng biết Bổn tâm, thì học pháp vô ích. Bằng biết Bổn tâm và thấy Bổn tánh, tức gọi là Trượng phu, là Phật, Thầy cõi trời và cõi người vậy!"
Ðến canh ba, Huệ Năng nầy thọ pháp, chẳng có ai hay. Tổ Sư truyền pháp Ðốn giáo và y bát cho ta mà dạy rằng: "Ngươi là vị Tổ đời thứ sáu. Hãy khéo tự hộ niệm. Phải quảng độ chúng hữu tình, và lưu truyền chánh pháp cho đời sau, đừng để đoạn tuyệt. Hãy nghe bài kệ của ta đây:
Có tình mới gieo giống,
Nhờ đất trái bèn sanh,
Không tình không có giống,
Không tánh ắt không sanh."
Tổ Sư lại nói: "Ngày xưa Ðạt Ma Ðại sư mới tới xứ này, vì người chưa tin nên phải truyền y này để làm tín thể, nối truyền cho nhau từ đời này qua đời khác. Còn Pháp thì lấy tâm truyền tâm, khiến cho người tự mình tỏ sáng, tự mình hiểu biết. Từ xưa chư Phật chỉ truyền cái Bổn thể, chư Sư chỉ mật trao cái Bổn tâm mà thôi. Y là cái mối của tranh, tới đời ngươi đừng truyền nữa. Nếu truyền y này, thì rất nguy đến tánh mạng. Hãy đi cho chóng, kẻo e có kẻ hại ngươi."
Huệ Năng nầy bạch: "Ði xứ nào?"
Tổ Sư nói: "Gặp Hoài thì ở lại, gặp Hội thì ẩn nương nơi đó."
Canh ba, khi Huệ Năng nhận lãnh y bát rồi bạch rằng: "Huệ Năng vốn là người Lãnh Nam, chẳng biết một con đường nào nơi núi này, làm sao ra đặng sông Cửu Giang?"
Ngũ Tổ nói: "Ngươi chẳng phải lo, để ta đưa ngươi đi."
Tổ đưa ta thẳng đến trạm Cửu Giang, bảo ta lên thuyền, rồi Ngũ Tổ tự cầm chèo mà đưa.
Huệ Năng nầy nói: "Thỉnh Hoà Thượng ngồi, để cho đệ tử chèo mới phải."
Ngũ Tổ nói: "Ta độ ngươi mới phải."
Huệ Năng nầy nói: "Lúc mê thì Thầy độ, ngộ rồi thì tự độ lấy mình." "Ðộ" tuy tên là một nhưng chỗ dùng không đồng. Huệ Năng nầy sanh nơi biên địa, giọng nói không đúng, nhờ Thầy truyền pháp, nay đã được tỏ ngộ, thì chỉ nên tự tánh tự độ (lấy tánh mình mà độ mình) mới phải."
Tổ Sư nói: "Phải vậy, phải vậy! Từ đây sắp sau, Phật pháp sẽ do ngươi mà được thạnh hành. Ngươi đi rồi, ba năm ta sẽ tạ thế. Nay ngươi hãy đi, gắng sức về hướng Nam, nhưng chẳng nên vội thuyết pháp, bởi vì Phật pháp hưng khởi từ trong khó khăn."
Huệ Năng nầy từ biệt Tổ Sư, đi về hướng Nam, trong hai tháng tới núi Ðại Dưu Lãnh.
(Khi Ngũ Tổ trở về, cách mấy ngày chẳng ra giảng đường. Các môn đồ có lòng nghi, bèn đến hỏi thăm: " Hoà Thượng có chút bệnh hay buồn chi chăng?" Tổ nói: "Ta không có bịnh chi, nhưng Y Pháp đã về hướng Nam rồi." Ðồ chúng hỏi: "Ai được truyền thọ?" Tổ nói: "Người có khả năng đã được." Khi ấy đồ chúng mới hay.)
Phía sau có mấy trăm người đuổi theo ta, muốn đoạt y bát.
Có một thầy họ Trần, tên Huệ Minh, ngày trước làm Tứ phẩm Tướng quân, tánh tình thô bạo, quyết chí tìm ta. Thầy cầm đầu chúng nhơn và đuổi theo kịp Huệ Năng nầy. Huệ Năng đặt y bát lên tảng đá mà nói rằng: "Y này là vật biểu tín, há dùng sức mà tranh được sao!" Ðoạn Huệ Năng nầy ẩn mình trong đám cỏ tranh.
Huệ Minh đến cầm y giở lên mà không nhúc nhích, bèn kêu rằng: "Hành giả, hành giả, tôi vì Pháp mà đến đây, chớ chẳng phải vì y đâu!"
Huệ Năng nầy bèn bước ra, ngồi xếp bằng trên tảng đá. Huệ Minh làm lễ, nói rằng: "Mong ơn hành giả nói pháp cho tôi nghe." 
Huệ Năng nầy nói: "Ông vì pháp mà đến đây, thì khá dứt hết trần duyên, chớ sanh một niệm tưởng, tôi sẽ nói rõ Phật pháp cho Ông nghe." 
Lẳng lặng một hồi lâu, Huệ Năng nầy nói: "Chẳng nghĩ việc lành, không nghĩ điều dữ, chính khi ấy cái gì là bản lai diện mục của Thượng Toạ Minh?" 
Huệ Minh nghe nói rồi, liền đại ngộ.
Huệ Minh lại hỏi: "Ngoài lời nói và ý chỉ diệu mầu Ngài vừa giảng, còn có ý chỉ vi diệu nào nữa chăng?"
Huệ Năng nầy nói: "Điều tôi nói với ông đó chẳng phải là điều vi diệu (mật). Nếu ông phản chiếu, thì cái vi diệu ấy (mật) ở ngay nơi ông." 
Huệ Minh nói: "Tôi tuy ở tại Hoàng Mai, nhưng thiệt chưa xét biết cái Diện mục của mình. Nay nhờ hành giả chỉ dạy, tỷ như người uống nước, lạnh nóng tự mình hay. Nay hành giả tức là thầy của Huệ Minh vậy." 
Huệ Năng nầy nói: "Nếu như thế, thì tôi cùng ông đồng thờ một thầy là đức Hoàng Mai. Hãy khéo tự hộ trì!" 
Huệ Minh lại nói: "Nay và sau Huệ Minh phải đi xứ nào?"
Huệ Năng nầy nói: "Gặp Viên thì ngừng lại, gặp Mông thì ở đó." 
Minh làm lễ rồi giã từ. ./.

---------—]–-------

CON ĐƯỜNG TẦM SƯ HỌC ĐẠO CỦA NGÀI LỤC TỔ HUỆ NĂNG Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét