ĐƯỜNG TAM
TẠNG THỈNH KINH
Lời tựa
Sự thật ở đời ai cũng muốn, nhưng mấy ai sống đúng với sự thật. Vì thế
cuộc chiến giữa thật và giả, giữa chân và nguỵ, giữa tà và chánh muôn đời không
khoan nhượng.
Ngài Huyền Trang không những là một nhà hành hương chiêm bái nơi
đất Phật mà còn mang nhiều ý nghĩa khác như là một nhà học giả, nhà thuyết
giáo, nhà hùng biện , nhà thần bí, nhà dịch thuật, nhà ngôn ngữ thiên tài, nhà
thám hiểm v.v..
Sự việc Đường Huyền Trang đi thỉnh kinh là nhân vật có thật,
nhưng tất cả những người tin theo đạo Phật có được mấy ai, được biết và tin là
sự thật. Còn các nhân vật trong phim truyện Tây Du Ký do Ngô Thừa Ân dựa theo
chuyến Tây du thỉnh kinh của Ngài Huyền Trang mà hư cấu trong câu chuyện các
nhân vật Tề Thiên, Bát Giới, Sa Tăng. Thế mà ai cũng tin là sự thật, rồi bình
phẩm từng nhân vật và từng tình huống xảy ra trong cốt truyện. Thật là việc
tưởng tượng, như nói chuyện trong chiêm
bao, thế mà được rất nhiều người tin là thật và ngưỡng mộ.
Rất có nhiều sự ngộ nhận về giáo lý Phật đà khi xem xong phim
truyện Tây du ký. Do đó, chúng tôi cần phải có đôi lời ghi lại một số nét chính
cuộc thỉnh kinh của Ngài Huyền Trang, để Phật tử có cái nhìn trung thực, rồi
phát tâm phấn chấn, tinh tấn trên con đường tu tập, cảm thấy mình nhỏ nhoi và
vô tích sự trong vòm trời Phật pháp. Đồng thời noi gương hạnh nguyện của Ngài
để thay đổi cách sống, cách nhìn về việc tu học của đời mình.
Con tằm trước khi chết còn nhả tơ, thân nó tuy chết nhưng tơ vẫn
còn để lại làm lợi, làm đẹp cho đời. Các vị Bồ tát, các vị thánh nhân cũng vậy,
quý Ngài đã đi xa lắm rồi, nhưng hạnh nguyện độ sanh vẫn lưu truyền mãi mãi làm
cầu tế độ cho muôn loài trong muôn thuở.
Quý vị cùng chúng tôi theo dõi từng bước chân Ngài Huyền Trang đã
đi qua 128 nước trong 17 năm trường cách nay hơn 1300 năm. Thế mà dấu chân của
Ngài vẫn còn in đậm nét không những trên những đoạn đường Ngài đi, mà nó còn in
dấu trong lòng mỗi người có tin phật hoặc không tin, khi đã được đọc, hoặc được
xem phim truyện Tây Du, với lòng tán phục vô bờ.
Thích Thiện Phương
Ngài
Huyền Trang là một đại công thành Phật giáo Trung Hoa, cũng như Phật Giáo Á
Châu. Có nhiều học giả viết về Ngài Huyền Trang, ở Việt Nam cũng như ở phương
Tây. Căn cứ vào Đại Đường Tây vực ký,
chØ cã bản dÞch của Nguyễn
Hiến Lê lµ gọn, dễ
đọc, ông có đem sự so sánh Ngài Huyền Trang với các nhân vật nổi tiếng
khác.
Ngài Huyền Trang suốt đời thanh đạm,
can đảm, cần cù, hiếu học, lễ độ, khiêm tốn, trong sạch và hy sinh. Ngài không
phải là một nhà văn hoá, khoa học, nhà thám hiểm, chỉ là một pháp sư đi hành
hương đất Phật. Sự nghiệp của Ngài rất quan trọng đối với Phật giáo Trung Hoa.
Ngài đã hiến tặng Trung Hoa 75 bộ kinh dịch từ Phạn ngữ ra Hoa văn gồm có 1.335
quyển, làm giàu cho văn hoá Trung Hoa trên một vạn từ và lưu lại cho nhân loại
vô số tài liÖu rất quý
như phong tục, khí hậu, sông núi, cỏ cây, di tích những miền hoang vu huyền bí,
Ở Á Châu và Ấn Độ. Những nhà thám hiểm phương Tây tới sau ngài đều phải khen
ngợi và thán phục sự ghi chép của Ngài rất đích xác, rất quý báu. Trong lịch sử
nhân loại không thể có một vị danh nhân nào thứ hai như Ngài. Ngô Thừa Ân,
người con dân tộc Trung Hoa đã thần kỳ hoá công cuộc thỉnh kinh của Ngài thành
Bộ Tây Du Ký. Tây Du Ký do Ngô Thừa Ân chế tác từ công cuộc thỉnh kinh của Ngài
không đúng như nguyên vẹn nhân vật và nội tình của cuộc Tây du của Ngài nhưng
nó có tác động mạnh nhờ sự hấp dẫn ly kỳ của những tình tiết éo le giữa tình và
lý, giữa lý và tình mà mọi người ai cũng thích. Ngài Huyền trang là một nhân
vật vinh dự từ xưa đến nay cho đất nước Trung Quốc, cái vinh dự ấy chưa từng ai
nhận được. Đọc lại Đại Đường Tây Vực Ký ta mới thấy tấm gương của Ngài để lại
cho ta soi. Ngài suốt đời thanh đạm, can đảm, cần cù, hy sinh, hiếu học, lễ độ,
khiêm tốn. Cái phong cách, khí tiết, công hạnh, sự nghiệp của Ngài đáng để ta
suốt đời noi theo học hỏi.
Cuộc hành hương thỉnh kinh đơn thân độc mµ đầy uy dũng của vị cao tăng Huyền Trang đã trải qua
cách đây hơn 1300 năm nhưng nó vẫn còn sáng chói và gợi ý tò mò theo dõi lại
những bước đi xưa của Ngài, càng tò mò câu chuyện viễn du của Ngài người đọc dù
già hay trẻ, dù trí thức hay bình dân, dù đồng hay khác tín ngưỡng đều thán phục
không chê. Ngài đã đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi, vượt qua bao nhiêu
địa hình hiểm trở, bao vùng khí hậu khắc nghiệt, độc hại cũng như bao thử thách
do con người, do ma chướng gây nên. Nhờ niềm tin dũng mãnh, tài năng siêu việt
và ý chí kiên cường, Ngài đã vượt thắng tất cả.
Đất nước Trung Hoa tự hào về vị cao
tăng kiệt xuất ấy, Người đã thực hiện một kỳ công thỉnh kinh rực rỡ trong lịch
sử Phật Giáo Trung Quốc và cả thế giới. Ngài là một nhân vật lịch sử đích thực,
chứ không phải nhân vật huyền thoại, sự nghiệp thỉnh kinh của Ngài là một sự
kiện lịch sử hiển nhiên. Các vị học giả, các nhà nghiên cứu trên thế giới đều
nhất trí đánh giá Ngài không những là một trong các nhà thám hiểm bậc nhất mà
còn là một nhà ngôn ngữ học thiên tài. Ngô Thừa Ân của Trung Quốc đã đưa những
nhân vật tưởng tượng, hư cấu vào cuộc thỉnh kinh như Tôn Hành Giả, Sa Tăng, Trư
Bát Giới vào truyện tây Du Ký với dụng ý tạo sự hấp dẫn nhằm dễ phổ biến sâu
rộng trong quần chúng. Tuy nhiên ý niệm tốt này cũng có mặt phản tác dụng vì đã
tạo ra sự ngộ nhận trong quần chúng về Ngài Huyền Trang. Nhân vật Tề Thiên thì
nổi bật về tài nghệ siêu phàm có thần thông quảng đại, trÝ tuệ siêu phàm, còn Đường Tăng - nhân vật chính của
lịch sử - lại trở thành một hình tượng yếu kém, thụ động, có lúc phạm phải sai
lầm. Mọi người xem qua phim Tây Du Ký đều có cảm giác nhân vật Đường Tăng là
người có bản tính yếu đuối, lương thiện, hiền lành, nhưng lại độc đoán, không
phân rõ phải trái. Dưới sự bảo hộ của Tôn Ngộ Không, thần thông quảng đại, Trư
Bát Giới biếng nhác lại ham ăn, mê sắc, Sa Tăng thì bộc trực. Đường Tăng phải
trải qua 81 nạn, cuối cùng thì hoàn thành chuyến Tây Du thỉnh kinh.
Phần I. HUYÒN TRANG THỜI NIÊN THIẾU
Ngài Huyền Trang họ Trần, tên Vỹ, con
thứ tư của ông Trần Huệ, sinh năm 612 sau công nguyên, tại thôn Trần Hà gần Lạc
Dương, tỉnh Hà Nam. Trong nhà có 5 anh em, Ngài là người thông minh nhất. Khi
Ngài lên 4, mẹ Ngài qua đời, cha Ngài phải gánh vác trách nhiệm gia đình. Cha
Ngài vốn xuất thân Nho học, chuộng cổ trọng hiền, thích đọc sách không hề biết
mỏi mệt, vì bất mãn cuối triều Tuỳ loạn lạc nên lui về ở ẩn. Kinh điển Nho học,
cầm kỳ, thi họa phụ thân đem tất cả những truyền thống tinh tuý văn hoá của
Trung Quốc truyền đạt lại cho các con. Huyền Trang thích được nghe cha dạy
nhất, từng lời từng lời đều rót vào tim. Một hôm phụ thân giảng cho Ngài nghe
một đoạn trong "Hiếu kinh", phụ thân vừa dứt lời, Huyền Trang đã đứng
dậy, sửa áo chỉnh tề, cúi đầu cung kính lắng nghe, phụ thân có chút ngạc nhiên
hỏi "con sao vậy?", Huyền Trang đáp "Tăng tử cũng không ngồi khi
trả lời thầy, con nghe cha dạy, làm sao mà dám ngồi". Lúc đó ngài mới 8
tuổi. Điều bất hạnh nữa đến với Ngài là lúc lên mười tuổi thì phụ thân qua đời.
Cha mẹ đều mất, chị lập gia đình, người anh thứ hai Trần Tiệp xuất gia tại chùa
Tịnh Độ tại Lạc Dương. Người anh dẫn Ngài đến chùa Tịnh Độ chỗ mình ở dạy tụng
kinh và học tập kinh điển. Điều khiến người anh ngạc nhiên là Huyền Trang được
ở trong chùa như dịp cá gặp nước, dường như trở về lại nhà xưa. Không đầy mét năm, Huyền Trang đã thuộc làu không ít kinh điển. Năm
Ngài 13 tuổi, Tuỳ Dạng Đế ban chiếu thế độ cho 27 vị tăng tại Đông Đô Lạc
Dương, Huyền Trang tuổi còn nhỏ quá, ngay cả việc dự tuyển còn không được huống
chi là. Ngài đứng rất lâu bên ngoài trường thi, không chịu đi, mặt không rời
nhóm người cầu thế phát và chư tăng đi đi lại lại, vừa ngưỡng mộ, vừa tiếc rẻ.
Đột nhiên, một vị mặc quan phục tiến về phía Ngài. Đây chính là quan chủ khảo
thế độ Trịnh ThiÖn Quả. Ông
chú ý thấy Huyền Trang đứng bên ngoài rất lâu, liền hỏi "Cháu là con nhà
ai?" HuyÒn Trang tr¶ lêi: "Con
nhà họ Trần, làng Du Tiên, huyện Hậu Thị, Lạc Châu". Trịnh Thiên Quả thấy
cậu bé dung mạo tuấn tú, lời nói lưu loát, cử chỉ tự nhiên, trong lòng cũng cảm
thấy mến. Ông thấy Huyền Trang tuổi còn nhỏ, hơi do dự, nhưng ở nơi Huyền Trang
ông thấy sự thành tâm và thông minh nên chấp thuận.Trịnh Thiên Quả liền hỏi
tiếp "Cháu cũng muốn xuất gia sao?", "Dạ vâng, nhưng vì tuổi quá
nhỏ, lại thêm Phật học còn nông cạn, không thể dự tuyển", "Vì sao
cháu muốn xuất gia?", "Nói xa, vì muốn kế thừa giáo huấn của Phật Tổ,
nói gần muốn hoằng dương chánh pháp đang bị mai một", "Thế thì ngươi
sẽ được như ý, ta đặc cách độ cho ngươi làm tăng". Trịnh ThiÖn Quả đã làm đúng theo lời mình vì nhận thấy cái khí
phách, trang mạo khác thường, cách đối đáp trôi chảy của cậu bé. Để các vị giảm
kh¶o khỏi phản đối, ông giải thích :
tụng kinh là việc dễ làm, còn có được phong cách thì rất khó. Câu bé thế phát
hôm nay tương lai sẽ là vị lãnh đạo trong nhà Phật. Tôi và những vị hiện ngồi
đây e rằng không có cơ hội thấy được ngày đó. Người này, nếu làm tăng thì chắc
sẽ thành một bậc cao tăng đại đức trong chốn thiÒn môn không
ai sánh kịp. Trịnh ThiÖn Quả đã
tiên đoán không sai, cậu bé sau này chính là Pháp sư Huyền Trang Đường Tam
Tạng, vị sự Trung Hoa danh tiếng nhất ở thế kỷ thứ 7 Tây nguyên, người đã đi
50.000 dặm đường bộ, trải qua 128 nước lớn nhỏ, 17 năm lưu học ở Ấn Độ, 18 năm
trước tác phiên dịch không gián đoạn của Trung Hoa. Một nhà sư đã được toàn thể
vua chúa thời bấy giờ kính trọng, được
toàn thể dân chúng Ấn Độ và Trung Hoa hoan hô, nhiều nhất trong các hội
trường đấu lý. Một người mà khi chết có trên
một trăm vạn người đi đưa đám tang, ba vạn người làm lều ở bên mộ, một
nhà sư mà bóng dáng luôn thấp thoáng trong các kinh viện Phật Giáo, cuộc đời
luôn được hàng trí thức nhắc lại một cách kính cẩn, đầy cảm phục qua tập Đại
Đường Tây Vực Ký và người bình dân toàn câi Á Đông
thích thú say mê kể lại cho nhau nghe qua bộ truyện Tây Du hoang đường. Hơn
1300 năm trở lại đây, kinh văn đọc tụng đa phần do Ngài phiên dịch. Ngài Huyền
Trang rất được dân Ấn Độ tôn sùng, quý mến, tôn lên hàng bậc thánh của người
dân Ấn. Vì thế Ấn Độ có lập đền thờ kỷ niệm Ngài Huyền Trang, gọi là Kỷ niệm
Đường Huyền Trang nay vẫn còn. Nếu không có tập Đại Đường tây Vực Ký của Ngài
Huyền Trang, lịch sử Ấn Độ cổ đại vẫn còn lµ một màn
đen, thËm chí họ
không biết đức Phật Thích Ca là người Ấn Độ. Ngài Huyền Trang không chỉ là một
vị cao tăng mà còn là sứ giả văn hoá, nhà du hành vĩ đại. Các vị học giả tôn
Ngài là “thiên cổ nhất nhân ” từ đó có thể thấy địa vị quan trọng của Ngài
trong lịch sử Trung Quốc. Từ khi Ngài Huyền Trang được chính thức triều đình
chấp thuận cho xuất gia để thành tăng rồi Ngài gia công học quên ăn quên ngủ.
Càng học Huyền Trang hoang mang thấy có bao nhiêu tông phái có mỗi chủ trương,
Ngài không thấy thoả mãn khiến cho Ngài nghi vấn.
Phần II . LẬP NGUYỆN LỚN
Ngài Huyền Trang khao khát cầu pháp.
Chưa đầy 2 năm, đối với điển tích Phật Giáo cũng như giáo nghĩa các bộ phái,
Huyền Trang đều tinh thông. Thế nhưng càng biết nhiều, Ngài càng thấy mơ hồ. Có
lúc cùng một bộ kinh, chư đại đức cao tăng lại giảng giải không như nhau, thêm
vào các kinh văn dịch ra cũng không giống nhau, Huyền Trang tuần tự thỉnh giáo,
nhưng không sao giải quyết được, những nghi vấn trong lòng. Do phiên dịch Phật
kinh không chính xác? Hay do lý giải có sai lệch?. Vào giữa thế kỷ thứ nhất,
Phật Giáo bắt đầu truyền vào Trung Quốc. Mấy trăm năm nay, có một 100 đến 1000
vị tăng sĩ các nước đặc biệt là Ấn Độ và Trung Á từ vạn dặm xa đến Trung Quốc
truyền giáo, họ đã phiên dịch kinh Phật sang tiếng Hán sớm nhất. Điều khiến họ
phấn khởi là Phật Giáo vừa truyền vào Đông Đé đã được sự
hoan nghênh nồng nhiệt của người Trung Quốc. Trung Quốc có nền văn hoá và lịch
sử lâu đời, có tín ngưỡng Nho và Lão riêng. Nhng Nho giáo
cường điệu vấn đề trật tự xã hội. Còn Đạo giáo chuyên chú vào sự thống nhất
giữa con người và vũ trụ, mục đích của nó là tìm cầu trường sinh bất lão trong
hiện tại. Nho và lão không giải đáp được vấn đề mà con người muốn biết nhất:
Con người sau khi chết đi về đâu?. Phật Giáo tin tưởng nhân quả báo ứng, người
hành thiện tích đức nhất định được sinh vào thế giới an lành, điều này đã giải
thích được nổi lo của con người đối với đời sau, đồng thời cũng đáp ứng được
khát vọng của con người về tình thương yêu, chính nghĩa và bình đẳng. Tuy gặp
nhiều khó khăn nhưng Phật Giáo cuối cùng cũng bắt đầu đâm chồi trên mảnh đất
vốn có nền văn minh lâu đời, nay lớn mạnh và trở thành một bộ phận quan trọng
nhất trong truyền thống tư tưởng văn hoá Trung Quốc. Để Phật Giáo càng thích
nghi với tâm lý và văn hoá nước nhà, các vị tăng Trung Quốc từng tốp từng tốp
phiên dịch chú giải kinh văn, sau đó tuỳ thời mà sáng lập ra các tông phái như
: Thiên Thai Tông, Duy Phúc Tông, Tịnh Độ Tông, Thiền Tông, MËt Tông, Luật Tông, v.v…Thiên Thai Tông lấy tông chỉ của
kinh Pháp Hoa là cơ sở, đi sâu vào nghiên cứu hoằng dương tư tưởng Đại Thừa
Phật Giáo, cho rằng người người đều có Phật tánh, tất cả chúng sanh đều có thể
thành Phật. Căn cứ theo giáo nghĩa Thiên Thai Tông thì chân lý vũ trụ bao gồm
trong kinh Pháp Hoa là Bộ Kinh Phật Đà thuyết sau cùng, đọc qua kinh này sẽ
hiểu rõ được lý Phật. Thiền Tông thì lấy việc kiến tánh để thành Phật. Muốn
kiến tánh phải dứt bặt muôn duyên đưa đến định tâm thì tánh chơn hiÓn lộ. Tịnh Độ lấy câu danh hiệu Phật mà trì niệm, cho
được nhất tâm, thì vọng niệm sẽ dừng nghỉ, vọng niệm dừng nghỉ, tâm thanh tịnh
hiển lộ , Tịnh Độ Tông còn tin vào thần lực của Phật A Di Đà cùng với sự tự lực
của hành giả thì sẽ đạt đến mục tiêu giải thoát như sức thuyền chèo cộng với
sức gió thì mau đến chỗ. Vả lại phương pháp niệm Phật là pháp phổ bị ba căn, ai
cũng có thể thùc hành
được. Câu niệm Phật nó giống như sợi dây thÑo mũi con
trâu ý thức, kh«ng ®Ó ý thøc buông lung
của ta chạy rông được, cho nên dễ hành trì ít đi xa lạc, gọn, dễ thành công.
Tịnh Độ Tông đề xướng nhất tâm niệm danh hiệu Phật, cho rằng niệm Phật sẽ được
Phật hộ niệm, sẽ được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc của Phật A Di Đà, Bồ Tát
Quan Âm là trợ thủ đắc lực nhất của Phật A Di Đà. Thiên thủ thiên nhãn không có
chỗ nào mà không có Ngài, không có người nào không được cứu, chỉ cần chuyên tâm
niệm danh hiệu của Phật A Di Đà, tất sẽ được cứu vãng. Đối với người dân khổ
nạn trầm luân, cõi Tịnh Độ Tây Phương là Phật A Di Đà là tuyệt vời nhất của họ.
Những vấn đề căn bản của Phật tánh, các học ph¸i giải
thích không thống nhất. Có phải mọi người đều có khả năng thành phật không ?
.Huyền Trang nói với Ngài Huệ Lập "Nay cách thời Phật Tổ quá xa , đối với
sự lý giải phật giáo có quá nhiều sai lệch, giáo nghĩa các học phái lại không
tương đồng, không ngừng tranh luận thương thay".
Ngài
Huyền Trang ôm nặng mối nghi ngờ , quyết đi tìm các cao tăng cầu giáo. Nhưng
người anh Trần Tiệp cho rằng , cuộc sống tại Ba Thục đã ổn định, hơn nữa cả hai
anh em giảng kinh thuyết pháp có ảnh hưởng sâu rộng, được tôn xưng là "Đôi
cánh họ Trần" nên không muốn bỏ công danh, tìm mọi cách khuyên ngăn em ở
lại. Thế nhưng lòng đã quyết, vào lúc chạng vạng tối của ngày xuân năm 623
Huyền Trang rời bỏ anh, cùng một vài thương gia làm bạn, xuôi dòng Tam Hiệp từ
Kinh Châu đÕn Dương
Châu, từ Giang Nam đến Hà Bắc, du học khắp nơi, tầm sư hỏi đạo. Bất luận trị
viên xa cách mấy, chỉ cần có cao tăng ngài lập tức đến bái.Trải qua
2 mùa đông, cuối cùng Ngài cũng đến được Trường An. Đến Trường An không bao lâu
Ngài gặp được vị danh tăng tªn Bo Po từ
Ấn Độ sang Đại Đường dịch kinh. Theo cao tăng truyện ghi chép Bo Po rất thông
thạo kinh điển, am tường các học thuyết Phật Giáo, Huyền Trang lập tức đến cầu
giáo. Sau khi giải đáp các nghi vấn của Huyền Trang. Ngài Bo Po giới thiệu chùa
Na Lan Đà, nơi mình từng ở học cho vị tăng Trung Quốc hiếu học này nghe, đây là
đại học Phật Giáo có ảnh hưởng rất lớn nhất tại Ấn Độ đương thời, Huyền Trang
càng nghe càng kích động. Ngài sớm biết Phật Giáo giống như Đại Dương mênh
mông, nhiều năm cần mẫn nghiên cứu, cầu giải nghi hoặc, chỉ như cảm giác nhỏ bé
đứng trước biển cả. Lúc này trong lòng Ngài khởi niệm: phải đến tận thánh đÞa Phật Giáo để triều bái, vào Na Lan Đà để nghiên cứu
Phật pháp, mới xác thực kinh phật H¸n dịch và
lời phật dạy, đây là phương pháp tốt nhất tìm cầu chân đế, tu luyện giác ngộ. Ý
đã quyết, Huyền Trang lập tức chuẩn bị, chư tăng người Ấn Độ trở thành người
dạy tiếng Phạn cho Ngài. Các thương gia qua lại trên con đường tơ lụa cung cấp
cho Ngài thông tin về các quốc gia họ đã đi qua, Ngài thường ra ngoài thành
Trường An đi bộ, tập leo núi để luyện thân thể tráng kiện, đọc lại những điều
ghi của các vị tăng Trung Quốc lần đầu sang Ấn Độ cầu pháp càng nung đúc tinh
thần Ngài. Việc cuối cùng là chọn pháp lữ đồng hành. Ngài cho rằng đến thánh
địa Phật quốc truyền bá là niềm mơ ước của mỗi người xuất gia, lo gì không có
bạn?. Thế nhưng khi hỏi các vị trong tu
viện, hay chư tăng đến tạm trú, không một lời đáp ứng. Nguyên nhân là mùa hạ
năm 626 trong lúc Vương triều Đại Đường mới thành lập chưa hoàn toàn ổn định,
thì lại phát sinh biến cố Huyền Võ Môn chấn động triều đình.Tần Vương Lý Thế
Dân mưu sát huynh đệ Lý Kiến Thành, Lý Nguyên Kiết bức vua cha Lý Uyên thoái
vị, tự đang cơ xưng đế gọi là Lý Thái Tông. Năm 627, Đường Thái Tông đổi hiệu
là Trinh Quán. Trong năm này Huyền Trang đã vài lần dâng sớ lên triều đình xin
quan văn, đều không được phê chuẩn. Sau khi bãi chầu chư tăng khuyên Ngài gắng
chờ, không chừng triều đình bãi bỏ lệnh cấm xuất quan. Thế nhưng lòng Ngài như
lửa đốt, một ngày cũng không thể chờ. Được hay không được phê chuẩn của Hoàng
Đế Ngài vẫn đi.
Nước
Trung Hoa vừa ổn định chưa củng cố xong, triều đình sợ không dám giao dịch với
các dân tộc lân cận như Đột Quyết, Hung Nô, hai nước này đã từng xâm lấn nước
Trung Hoa, nên vua không cho Ngài xuÊt hành ra
khỏi nước. Những người với Ngài đồng cầu không được bèn bỏ ý định, riêng Ngài
ngày đêm học tập và cầu nguyện. Để nuôi chí xuất ngoại, Ngài bỏ ra công trong
hai năm chuyên tâm học tập tiếng nói và văn tự các nước Tây vực và Ấn Độ. Ngài
biết trước đường đi sẽ gian khổ muôn vàn khó khăn hiểm trở, Ngài tập chịu đựng
gian khổ, thức khuya dậy sớm, bớt ăn, bớt ngủ, giải nắng dầm sương, làm tất cả
mọi thứ khó nhọc khổ sở để thử xem lòng mình có chịu đựng được không. Tuy đã
cảm nhận được sự kiên gan bền chí của mình, Ngài vẫn không quên cầu nguyện sự
hỗ trợ lớn lao của Chư Phật và Bồ Tát. Đêm đêm Ngài quỳ trước bàn Phật, ngước
nhìn tượng đức Như Lai, thành kính nguyện cầu, sự gia hộ cho cuộc Tây Du của
mình được thành tựu. Một đêm vào năm 629, Ngài nằm mộng thấy núi Tu Di cao chót
vót nổi lên giữa biển mênh mông. Ngài nhảy xuống biển, không ngại ngùng sóng to
gió lớn, quyết tâm bơi cho tới chân ngọn núi. Bỗng một toà sen nổi lên dưới
chân Ngài và đưa Ngài đến chân núi. Nhưng ngọn núi này quá hiểm trở, khó có thể
leo lên được, Ngài chưa biết tính sao, thì bỗng có một nguồn gió lạ nổi dậy
nâng ngài lên đỉnh núi. Một chân trời mênh mông hiện ra dưới chân Ngài, chung
quanh khung cảnh bao la rực rỡ, bao nhiêu đất nước, xứ sở đều hiện rõ ra trước
mắt làm Ngài sảng khoái vô cùng, Ngài sực thức dậy và càng thêm tin tưởng vào
sự thành tựu nguyện vọng mình. Từ đó
Ngài càng quyết chí tin rằng thế nào cũng thành công, chính lòng quyết tâm đó
giúp ngài thành công vượt qua mọi gian nan thử thách sau này.
Giấy
tờ tấu xin triều đình xuất ngoại không được phê chuẩn, đợi mãi vẫn không thấy
gì đáp lại, Ngài nhất quyết ra đi. Năm Trinh Quán thứ 3 đời Đường Thái Tông
(629) miền phụ cận kinh đô Trường An lúc bấy giờ gặp phải nạn mưa đá, mất mùa,
dân chúng đói khổ, nhà vua mới ra lệnh hạ chiếu cho dân chúng tản mác ra các
miền phong phú mà mưu sống. Ngài thừa cơ hội đó, đi về phía Tây. Năm ấy Ngài đã
34 tuổi (có chỗ nói 28 tuổi).
Phần III. TRèN RA NGOÀI BIÊN CƯƠNG
Nhân
cơ hội triều đình cho dân chúng đi nơi khác làm ăn, Ngài theo nhóm người di cư
tiến về phía Tây, mở đầu cuộc du hành từ đó. Vào lúc tuổi của Ngài 28 - đến năm
45 tuổi, Ngài mới trở về, xa quê hương 17 năm. Tuổi đó là tuổi hăng hái tin
tưởng, bản tính ông nghiêm cẩn ôn hoà, được rất nhiều người mến trọng, da hơi
sạm, mắt sáng, nét mặt uy nghiêm tươi sáng rực rỡ, giọng nói trong trẻo tao nhã
rõ ràng thanh thoát du dương ai nghe cũng mê, nhìn Ngài người ta thấy sự dung
hoà giữa đạo Phật và đạo Khổng, lòng thương người, từ bi đại độ của đạo Phật. Ở
nơi Ngài, mọi cử chỉ mọi hành động nói năng thể hiện nếp sống đạo đức, lễ độ,
vừa thương người, vừa cương quyết lại bình tĩnh thong thả như bông sen trên mặt
nước.
Cuộc
hành trình của Ngài chia làm 4 giai đoạn.1/ Từ Trường An đến Ngọc Môn Quan hết
địa phận Trung Hoa. 2/ Từ Ngọc Môn Quan đến địa phận nước Ca Bi Ca là biên giới
địa phận Ấn Độ, phải qua những nước nhỏ ở Trung bộ Á Châu. 3/ Giai đoạn ở Ấn
Độ. 4/ Giai đoạn trên đường về. Lúc về do sự tình cờ, Ngài lại đi theo một con
đường khác lúc đi, thành thử ghi chép thêm được nhiều nhận xét, những việc còn
bí mật.
Lúc
đi tại địa phận Trung Quốc từ Trường An Ngài đến Tân Châu, Lan Châu, Lương Châu
là ngã ba của các con đường mòn đưa các đoàn thương buôn từ phương Tây hoặc từ
Mông Cổ tiến vào Trung Hoa. Các thương nhơn đó gồm nhiều giống người, nhiều
ngôn ngữ phong tục khác nhau, họp chợ trao đổi hàng hoá, tin tức với nhau, và
chắc chắn cũng có thành phần để do thám cho nên canh phòng rất cẩn mật.
Ngài
Huyền Trang rời Trường An với một nhà sư là Hiếu Đạt. Vị sư này quê ở Tần Châu,
trở về làng sau một thời gian lưu học ở Trường An. Huyền Trang đến Tần Châu trọ
lại một đêm, rồi theo người bạn khác đến Lan Châu. Đến đây Ngài cũng chỉ trọ
lại một đêm. Sáng sớm nhân cớ người giữ ngựa của quan cai trị Lương Châu dắt
ngựa về huyện, Ngài theo người này đến Lương Châu. Lương Châu là đô thị lớn đất
Hà Tây, yếu địa quốc phòng miền tây của triều Đường. Quan đô đốc là Lý Đại
Lượng trấn thủ vùng ấy vâng sắc lệnh nghiêm cấm nhân d©n đi về phía Tây. Huyền Trang ở lại Lương Châu đến 1
tháng nấn ná chờ đợi cơ hội mà chưa biết làm thế nào để trốn ra khỏi cửa thành.
Một buổi sáng thừa cơ lính giữ cửa thành lơ đễnh, Ngài lẫn ra khỏi thành đi về
phía Tây. Không rõ vì ai báo tin, sự trốn thoát của Huyền Trang bị Lý Đại Lượng
biết được. Viên quan này có tên Đại Lượng nhưng lại không đại lượng chút nào,
lập tức cho vệ binh đuổi theo bắt lại. May thay một pháp sư tên là Tuệ Uy nghe
thấy Huyền Trang có chí lớn đi Tây Du cầu pháp rất lấy làm khâm phục, mật sai 2
đệ tử Tuệ Lâm và Đạo Chỉnh dẫn đường cho Ngài đi. Bấy giờ 3 người lẫn lút, ẩn
nấp, ban đêm mới dám đi. Họ ngủ trong cỏ rác, nằm dưới sương lạnh, chịu đựng
bao nhiêu khó nhọc mới lÇn hồi đi
đến được Trường dịch, ra khỏi cửa Gia Cốc, rồi đến Qua Châu. Khi nghe tin Ngài
đến, quan thứ sử Qua Châu là Độc Cô Đạt, một tín đồ Phật Giáo không làm khó
khăn gì đối với Ngài. Ông ta cho Ngài biết con đường đi về phía Tây khó khăn
như thế nào.Từ qua Châu đi về phía Bắc 50 dặm, có con sông Qua Lô phía dưới
rộng, lòng sông sâu, nước chảy xiết không thể qua được, phía trên hẹp, nhưng
lại có đồn trấn thủ đóng, gọi là đồn Ngọc Môn Quan. Muốn đi về phía Tây, tất
phải qua đó. Ra khỏi Ngọc Môn Quan, lại phải đi qua 5 toà phong hoả đài, mỗi
đài cách nhau vào khoảng 100 dặm, có quân đội canh giữ. Những đài này xây bằng
đá, chỉ phụ cận đồn mới có nước và một ít cây cỏ, ngoài ra là những bãi cát
mênh mông. Qua phong hoả đài thứ 5 là đến địa phận nước Y Ngô (nay là xứ Tân
Cương).
Con
ngựa của Ngài Huyền Trang không may bị chết, trong hai đồ đệ đi theo thì Đạo
Chỉnh đã trở về Đôn Hoàng. Còn Tuệ Lâm thì tự nhận thấy không thể đi xa hơn
được nữa, nay lại nghe quan thứ sử Qua Châu cho biết con đường khó khăn, trở
ngại như thế, nên cũng thoái thác không đi nữa. Ngài Huyền Trang đã đau xót vô
cùng. Thêm vào nổi đau ấy, tờ lệnh truy nã của Đô Đốc Lý Đại Lượng ở Lương Châu
lại đến nơi. Tờ trác viết :"Nghe có thầy tăng là Huyền Trang muốn sang Tây
Vực. Vậy sức cho Châu huyện các nơi phải nghiêm mật xét hỏi mà bắt giữ lại".
Có người thuộc ở Qua Châu là Lý Xương lén đem tờ trác ấy đến hỏi Ngài:
"Thầy có phải là Huyền Trang không?". Ngài lo ngại bất trắc chưa trả
lời, thì Lý Xương nói tiếp: "Thầy phải nói thực, nếu mà nói đúng là thầy,
đệ tử sẽ lo liệu". Ngài đành phải nhận mình là Huyền Trang. Lý Xương lấy
làm thán phục khen ngợi Ngài rối rít và nói :"Pháp sư đã có chí nguyện lớn
lao, đi được như thế này thì tôi xin vì pháp sư xé bỏ tờ điệp này". Nói
xong Lý Xương xé ngay tờ điệp trước mặt Ngài và giục pháp sư lo liệu mà đi cho
sớm. Nhưng Ngài Huyền Trang chưa đi ngay được vì con ngựa của Ngài đã chết,
chưa mua lại được, và cũng chưa tìm ra được người dẫn đường. Một hôm Ngài đang
đi đi lại lại, lòng bồn chồn lo nghĩ việc ra đi, thì có một tín đồ người giống
Hồ tên là Thạch Bàn Đà đến xin làm đệ tử và tình nguyện hộ tống Ngài đi. Huyền
Trang quá đỗi vui mừng, sắm áo quần cho Bàn Đà và mua 2 con ngựa thầy trò cùng
đi. Bàn Đà được Huyền Trang nhận làm đệ từ thì mừng rỡ và cáo từ về nhà, chốc
lát trở lại đem theo quà bánh dâng cóng Ngài.
Thấy người đệ tö mới thân
hình tráng kiện, cử chỉ cung kỉnh, Huyền Trang ngõ ý sắp đi cho người ấy biết
và chuẩn bị hành lý cïng hẹn ngày
lên đường. Ngày hôm sau chú tiểu Hồ ấy lại cùng một ông già người Hồ cưỡi một
con ngựa hồng, già và gầy đến. Bàn Đà nói :" Ông già này thuộc đường đi
Tây Vực lắm, kể ra đã đi lại nước Y Ngô trên 30 lần rồi. vậy nên đệ tử mời lão
đến đây để hầu chuyện với thầy". Ông lão lấy tình thật khuyên Huyền Trang
đừng đi, ông nói :" Đường đi về phía Tây rất hiểm ác, bãi sa mạc ở nước Y
Ngô dài 800 dặm, trên không chim bay, dưới không thú chạy, rủi cơn bão cát thì
tính mạng không còn. Người ta kết đoàn kết lũ còn lo đi lạc, huống chi nhà sư
một mình thì làm sao đi được, xin tự liệu trước chớ để hoài mất tánh
mạng". Ngài Huyền Trang trả lời :"Cảm ơn ông đã chỉ bảo, nhưng chí
tôi đã quyết. Sang Tây Vực để cầu Phật Pháp, nếu không đến được đất Ấn Độ thì
nhất định không trở về đây nữa. Giả sử chết ở giữa đường tôi cũng không ân
hận". Ông già thấy sự cương quyết của Huyền Trang, biết không thể lay
chuyển được lòng Ngài nên đề nghị đổi con ngựa già của lão để cưỡi đi,
"tuy nó già những khoẻ, dai sức và lanh lợi. Nó đi qua lại Y Ngô hơn 10
lần rồi nên nó thuộc đường lắm, con ngựa của nhà sư không kinh nghiệm, sợ đi
không được". Huyền Trang nghe theo đổi ngựa của mình cho ông lão. Ông già
mừng rỡ kính chào rồi từ biệt.
Chiều
hôm ấy hai thầy trò sửa soạn hành lý lên đường, đến tối thì ra đi. Đến canh ba
Huyền Trang và Bàn Đà đi đến bờ sông Qua Lô. Trông xa xa đã thấy Ngọc Môn Quan.
Ở thượng lưu, cách phía trên cửa quan độ 10 dặm, hai bờ sông hẹp lại chỉ độ một
trượng, trên bờ có mấy cây ngô đồng thẳng vút. Hai thầy trò đến đấy, chặt cây
làm cầu, trải cỏ rác lên trên để dắt ngựa qua. Người ngựa qua sông được bình
yên. Huyền Trang khoan khoái mở yên ngựa và trải chiếu nằm nghỉ. Tiểu Hồ nằm
cách Ngài độ 50 bước. Hừng hừng sáng, nó rút dao đi nhẹ nhẹ đến phía Huyền
Trang . Còn cách độ 10 bước nó dừng rồi quay trở lui, nằm xuống ngủ lại. Huyền
Trang nhận thấy nhưng làm ra vẻ thản nhiên không hay biết gì cả. Đến sáng Ngài
thức nó dậy, bảo đi lấy nước súc miệng, rửa mặt để sửa soạn lên đường. Nó làm
một cách miễn cưỡng. Lúc gần ra đi nó nói :" Đệ tử thấy đường đi còn xa mà
hiểm nghèo lắm, lại không có nước cỏ gì cả. Nếu muốn có nước và cỏ thì phải đến
gần các vọng canh đài lấy trộm. Nhưng nếu lính gác vọng canh đài mà biết được
thì tánh mạng thầy trò chúng ta không còn, chi bằng trở về là yên ổn".
Huyền Trang nhất định không nghe. Bàn Đà nói:" Nếu thế thì đệ tử không đi
theo được vì việc nhà còn bận nhiều, mà phép vua đệ tử cũng không dám xúc
phạm". Huyền Trang thuận cho Bàn Đà trở về Qua Châu một mình, nhưng nó trù
trừ không chịu trở lui. Hồi lâu nó nói :"Sư phụ đi, nếu bị người ta bắt
được mà cung xưng thất họ tên tôi ra, thì vợ con tôi và cả nhà tôi thế
nào?". Huyền Trang chỉ lên trời mà thề rằng: "Nếu chẳng may ta bị
bắt, người ta băm vằm ta ra làm muôn mảnh, ta cũng nhất quyết không nói rõ họ
tên ngươi ra, ngươi hãy yên tâm". Được lời cam kết ấy, Bàn Đà mới yên tâm
vỗ ngựa quay về.
Phần IV. QUA 5 PHONG HỎA ĐÀI VÀ SA MẠC GOBI
Từ
đây, một mình một ngựa, Ngài Huyền Trang thui thủi bắt đầu đi vào sa mạc mênh
mông, một biển cát rộng lớn không biết đâu là bờ mé, sóng cát nhấp nhô, lồi lỏm
không có lối đi, chỉ lần theo những đống xương khô cùng phân ngựa, lạc đà mà
tiến bước. Ngựa đi từng bước chậm chạp, khó khăn trong gió cát, từng hồi. Ngài
thấy hiện ra trước mắt mình hàng trăm ngàn binh mã ở phía chân trời, khi thì
tiến lên, khi thì dừng lại. Những binh lính ấy ăn mặc theo Qua Bích, lạc đà và
ngựa trang bị lộng lẫy, giáo mác sáng loà. Trong chốc lát binh đội ấy biến đâu
mất cả, rồi những hình tướng quái dị khác lại hiện lên, nhưng đến gần lại không
thấy đâu nữa! Ngài Huyền Trang tưởng mình đang bị đạo quân của Ma Vương quấy
rối. Nhưng không, đây chỉ là những ảo ảnh của sa mạc do hơi nóng gây ra. Trước
những cảnh tượng ấy, Ngài không sợ hãi, tự bảo :"Chết ta chẳng sợ, còn sợ
cái gì?".
Đi
được 80 dặm, Ngài trông xa xa thấy toà phong hoả đài thứ nhất hiện ra. Sợ đi
giữa ban ngày lộ tung tích, Ngài ẩn núp ven một cái khe cát, đợi tối mới tiếp
tục đi. Khi hoàng hôn xuống, Ngài đi lần đến bên phong hoả đài, thấy có một ao
nước trong, Ngài xuống ngựa, cúi lấy cái túi bằng da định múc nước thì một mũi
tên bay qua đầu, và tiếp theo một mũi tên khác gần trúng đầu gối. Nhận thấy
hành tung mình bị bại lộ, Ngài kêu to: "Xin đừng bắn tôi, xin đừng bắn
tôi, tôi là nhà sư ở Tràng An đến đây!". Nói xong Ngài dắt ngựa đến bên
cửa thành. Bọn lính mở cửa thành và dẫn Ngài vào hội kiến với quan Hiệu uý là
Vương Tường.
Vương
Tường cũng là một Phật tử, sau khi xét hỏi xong, biết được chí nguyện cao cả
của Ngài, viên quan này rất lấy làm khâm phục. Nhưng nhận thấy đường đi khó
khăn, Vương Tường có ý mời Ngài ở lại về trụ trì tại một ngôi chùa ở Đôn Hoàng
là quê hương của mình. Ngài Huyền Trang phân trần : "Bần tăng đau lòng
thấy kinh Phật thiếu sót, mỗi người hiểu một lối không biết đâu là đạo chân
truyền, bần tăng nguyện qua Ấn Độ học đạo để về bổ sung cho sự thiếu sót ấy. Từ
lâu bần tăng đã xót xa sự thiếu sót về kinh điển và sự kém khuyết của kinh điển
Phật giáo nước nhà. Bần tăng đã nguyện hi sinh thân mạng, không quản ngại gian
lao nguy hiểm để sang Ấn Độ thỉnh kinh mà Đức Bổn sư để lại. Đáng lẽ ngài phải
khuyến khích bần tăng mới phải, có lý nào khuyên bần tăng trở lại nước nhà.
Ngài bảo là ngài cũng chia sẻ với bần tăng lòng từ bi đối với chúng sanh đang
lặn hụp trong bể sanh tử luân hồi và sẵn sàng giúp bần tăng tìm phương thuốc
giải thoát cho nhân loại, thì sao ngài còn buộc bần tăng phải ở lại hay lui về
Trường An? Nếu ngài nhất quyết không cho đi, thì bần tăng xin nhận hết hình
phạt, chứ nhất quyết không lui một bước về phía Đông". Vương Tường nghe
Ngài nói đuối lý, vừa cảm động trước ý chí sắt đ¸ ấy. Giữ
Ngài lại một đêm, đến sáng hôm sau, Vương Tường biếu nước uống lương khô và
tiễn Ngài ra ngoài 10 dặm. Trước khi từ giã, Vương Tường còn căn dặn :"
Pháp sư cứ theo đưêng tắt này
thì sẽ đến toà phong ho¶ đài thứ 4.
Quan Hiệu uý giữ đài là Vương Bá Lung, là người nhà tôi, tâm địa lương thiện,
pháp sư đến đó nói là tôi đưa đến, chắc Bá Lung sẽ giúp đỡ cho pháp sư".
Sau
khi từ giã Vương Tường, Huyền Trang ra đi. Đến chiều thì đến được phong hoả đài
thứ 4. Sợ người giữ đồn làm khó cầm giữ lôi thôi, Ngài định lén lấy trộm nước
rồi trốn đi. Trong khi đang lấy nước, một mũi tên ở đâu bay ngang qua đầu, Ngài
đành kêu lên như lần trước, lính canh dẫn Ngài đến yết kiến quan Hiệu uý là
Vương Bá Lung. Sau khi nghe Ngài kể tự sự, Vương Bá Lung biếu Ngài một túi da
đựng đầy nước, lương khô, cỏ cho ngựa và dặn Ngài : "Quan Hiệu uý đồn thứ 5
tính khí hung bạo, khó lường được sự bất trắc. Vậy pháp sư nên tránh đồn thứ 5
đi đường khác, thẳng đến suối Dã Mã. Từ suối Dã Mã lại đi về phía Tây là Mục Hạ
Duyên Tích. Đường này dài 800 dặm, tên là Sa Hà (Tức sa mạc Qua Bích)" hay
là Gibi ngày nay. (800 dặm = 500 km)
Ngài
Huyền Trang từ biệt Vương Bá Lung, đi vào trong biển cát, nhắm suối Dã Mã và
Mạc Hạ Duyên Tích mà đi. Trừ Ngài và con ngựa, sự sống chết lịm ở nơi đây.
Không một bóng chim, một ngọn cỏ, một giọt nước. Bão cát rơi xuống như mưa
giông, đánh vào mình Ngài và ngựa nghe rào rào. Từng đám mây cát bay lại, mờ
mờ, mịt mịt, che lấp cả chân trời. Ngài đi suốt ngày gần được 1 trăm dặm, nhưng
không tìm được suối Dã Mã. Thì ra Ngài đã lạc đường ! Ngài mệt nhừ, xuống ngựa
lấy nước ra uống. Nhưng túi nước của Vương Bá Lung tặng cho to nặng quá, mà
Ngài thì đuối sức sau một ngày xông pha trong bão cát, nên tuột tay đánh đổ túi
nước xuống cát. Thật là một tai hoạ lớn lao nhất của người đi qua sa mạc. Một
giọt nước là một giọt máu. Ngài cảm thấy tất cả sinh lực, cuộc đời, bao nhiêu
hi vọng đều bị cái khát khao của sa mạc hút mất trong nháy mắt theo với túi
nước. Ngài buồn rầu lên ngựa quay lại, định bụng trở về phong hoả đài thứ 4 để
lấy nước. Ngài theo hướng Đông đi được 10 dặm, bỗng Ngài hồi tâm : "Ta đã
phát nguyện nếu không đến được Tây Trúc thì không lui về Đông một bước, nay sao
ta lại quay lui? Thà đi sang phương Tây mà chết, còn hơn là quay về hướng Đông
mà sống".
Các
nhà thám hiểm như Cô Lâm Bố khi gặp giông tố, gặp nguy hiểm nhưng bên cạnh họ
còn có bầu bạn, tuy lênh đênh trên biển cả mênh mông cũng có người theo dõi, và
mỗi khi đi đến đâu thì có người chào đón. Còn Huyền Trang thì thui thủi một
mình trên sa mạc mênh mông. Ban ngày chỉ có ánh nắng gay gắt của mặt trời, ban
đêm chỉ có ánh sáng mờ mờ của các vì sao, cảnh cô độc thật là ghê rợn mà kim cæ xưa nay chưa có ai bì kịp.
Lập
tức Ngài quay ngựa về hướng Tây, Ngài đi như vậy suốt 4 đêm 5 ngày, 1 giọt nước
cũng không có ở cổ họng. Ban đầu chỉ thấy môi lưỡi khô khan, sau cảm thấy toàn
thân nóng rát, đến mắt cũng khô không mở ra được, con ngựa cũng cứng đờ, không
bước nổi. Người ngựa nằm vật trên cát. Nhưng mặc dù đã kiệt lực, Ngài không
ngớt niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngài khấn : "Lạy Đức Quán Thế
Âm Bố Tát, trong chuyến đi này, con không vì giàu sang chức tước, con chỉ cầu
pháp độ sanh. Ngài hãy thương xót con , như đã thương xót bao nhiêu quần sanh
chìm đắm trong biển khổ, rủ lòng từ bi cứu vớt con khỏi bước cùng này".
Ngài cầu nguyện như thế cho đến 1/2 đêm thứ 5. Bỗng một trận gió mát tê người
thổi đến, như một thùng nước lạnh dội lên toàn thân, Ngài dần dần hồi phục, mắt
mở ra được, con ngựa cũng đứng lên được. Thấy dễ chịu trong mình, Ngài nằm thiu
thiu ngủ, được một chốc bỗng Ngài mộng thấy một người cao lớn, dị thường, tay
nắm cờ, tay nắm giáo đứng trước mặt Ngài nạt lớn : "Tại sao không mau mau
tinh tấn lên mà còn nằm ngủ nữa?" Ngài vùng đứng dậy, hối hả lên đường,
con ngựa gắng gượng đi được 5, 6 dặm, bỗng nó quay sang lối khác, chạy hăng
lên, Ngài không làm sao cản được. Biết chắc con ngựa đã nhận ra đường cũ, Ngài
cứ để cho nó đi. Một chốc, một khoảng cỏ xanh biếc hiện ra trước mắt, giữa đám
cỏ có dòng nước ngọt trong vắt. Ngài mừng quá, vội nhảy từ ngựa xuống khe nước,
người ngựa uống no nê, rồi nằm ngã trên cỏ suốt 1 ngày. Hôm sau Ngài đi tiếp, 2
ngày nữa mới ra khỏi sa mạc Hạ Duyên Tích và đến được địa giới nước Y Ngô. Như
vậy Ngài đã nhận chịu sự khó khăn nhất mới vượt qua sa mạc đó mất hết 8 - 9
ngày.
Vào
nước Y Ngô, Ngài Huyền Trang đến trọ ở một ngôi chùa. Có 3 vị sư người Trung
Hoa. Ba vị ra đón tiếp Ngài, ôm nhau mà khóc, không ngờ tha phương mà còn gặp
được người cố quốc. Ngài Huyền Trang cũng không cầm được lệ.
Phần V. MỐI TÌNH HUYNH ĐỆ
1000 NĂM CÒN THẮM THIÕT
Ngài
Huyền Trang ở nước Y Ngô đưîc hơn 10
ngày, một hôm được tin sứ thần vua nước Cao Xương đến yêu cầu quốc vương Y Ngô
mời Ngài sang nước ấy. Nước Cao Xương ở về phía Tây, nhưng cũng là dòng Hán, và
theo Phật Giáo. Vua nước ấy là Khúc Văn Thái, một tín đồ nhiệt thành của Đạo
Phật.
Ngài
Huyền Trang trước kia định từ nước Y Ngô theo rừng phía Bắc Thiên Sơn đến thẳng
Ấn Độ. Nhưng nay có lời thỉnh mời của vua nước Cao Xương nên buộc lòng phải rẽ
sang nước ấy. Ngài theo sứ thần đi về hướng Tây Nam, lặn lội 6 ngày trong vùng
sỏi đá, tới ngày thứ 6 thì đến địa giới Cao Xương, vào thành Bạch Lực. Vua cùng
các quan thị vệ đốt đuốc trước sau, tự ra khỏi cung, long trọng đón rước Ngài
vào hậu cung, mời Ngài ngồi trong bảo trướng tầng lầu trong. Quốc Vương nói :
"Sư phụ một mình một bóng, lặn lội qua sa mạc, là sự rất lạ lùng. Đệ tử đã
từng gặp nhiều vị danh tăng mà đệ tử không hâm mộ vị nào cả. ChØ từ khi nghe được đại danh pháp sư, vui mừng quên cả
ăn ngủ. Đệ tử tính hành trình biết rằng hôm nay pháp sư có thể đến được, cho
nên cả vợ con chưa dám ăn ngủ, chỉ ngồi xem sách để đợi pháp sư đến nghe
kinh". Một lúc sau, Vương phi và cung nữ trên mấy chục người đến bái chào.
Khúc Văn Thái ngồi chuyện vãn với Ngài đến gần sáng. Ngài mệt nhừ, đến gần sáng
mới đi nằm được một lát. Sáng hôm sau, trong lúc Ngài Huyền Trang nằm chưa dËy được, Khúc Văn Thái đã đến tận bảo trướng hỏi thăm
sức khoẻ và nói :
-
Đệ tử kính mến sư phụ, giận trọn đời không được cung phụng, mong rằng sư phụ
đừng nghĩ gì đến việc Tây Du nữa, hoan hỷ ở lại nơi đây để cho dân nước đÖ tử đều được chịu sự giáo hoá của sư phụ.
-
Tâu Đại Vương, bần tăng ra đi chuyến này không phải để nhận lãnh phú quý vinh
hoa. Bần tăng đã bao năm khổ tâm, vì tại nước nhà, nghĩa lý Phật Pháp đang còn
hoang mang, kinh điển còn nhiều thiếu sót, nên mới phát nguyện Tây Du để nghiên
tầm kinh điển, không quản ngại đường sá gian lao có thể tổn hại đến tính mạng.
Bần tăng mong rằng rồi đây mưa pháp sẽ thấm nhuần không phải chỉ ở Ấn Độ mà
toàn cõi Trung Quốc bao la. Vì thế, xin Đại Vương đừng bắt bần tăng phải bỏ dở
cuộc hành trình. Bần tăng rất lấy làm cảm kích về sự tiếp đãi ân cần của Đại
Vương, nhưng không thể nghĩ chuyện ở lại đây được. Xin Đại Vương hiểu thấu cho.
Nhưng
vua Cao Xương vẫn không từ bỏ ý định, nói một cách cương quyết:
-
Đệ tử một lòng quy kỉnh sư phụ, tha thiết mong mỏi sư phụ ở lại đây để ®ệ tử được may mắn sớm hôm hầu hạ. Lòng đệ tử đã quyết
thì mặc dù núi Tu Di có dời đổi, ý nguyện của đệ tử cũng không đổi thay.
Ngài
Huyền Trang vẫn một mực từ chối. Vua Cao Xương bây giờ đổi sắc mặt, đứng dậy
vung tay áo:
-
Đệ tử đã hết lời cầu khẩn mà pháp sư vẫn không nghe. Vậy đệ tử có cách khác đối
xử với pháp sư. Pháp sư không thể đi được, hoặc pháp sư lưu lại đây, hoặc đệ tử
đưa pháp sư trở về nước, xin pháp sư hãy lựa một trong hai điều.
Nói
xong, Khúc Văn Thái bỏ đi ra. Huyền Trang thở dài, nức nở không thể nói ra lời.
Từ đó Khúc Văn Thái lại tăng thêm đồ cúng dường, săn sóc Ngài rất chu đáo, cung
cấp từ ăn uống, áo quần, đồ dùng không thiếu một thứ gì. Mỗi ngày đến bữa ăn,
Khúc Văn Thái tự mình bưng mâm dâng lên chấp tay đứng hầu bên cạnh. Huyền Trang
không thể không cảm kích trước lòng chân thành của Khúc Văn Thái, nhưng nhận
thấy nếu cứ như thế này mãi thì khó đi
đến Ấn Độ được. Một hôm ngài nói với Khúc Văn Thái: "Bần tăng lặn lội xa xôi,
cốt là cầu lấy kinh phật, hiện giờ bị Đại Vương ngăn giữ. Đại Vương chỉ giữ
được hài cốt của bần tăng thôi, chứ tinh thần, ý chí của bần tăng thì Đại Vương
không giữ được". Từ đấy, Ngài thề nhịn đói, không ăn không uống nữa để cảm
động lòng vua. Ngài xếp b»ng ngồi
yên, ba ngày không có một hạt cơm, một giọt nước vào miệng. Hơi thở Ngài yếu
dần, thân hình ngày không còn ngồi thẳng được, xem chừng nguy kịch. Đến ngày
thứ tư, Khúc Văn Thái sinh lòng lo lắng và hối hận, cúi đầu lạy và nói rằng:
Thôi đệ tử xin tạ tội với pháp sư. Đệ tử không dám cầm giữ nữa. Pháp sư muốn
sang Tây Trúc thì cứ sang, nhưng xin hãy xơi cơm cho. Đệ tử chỉ xin pháp sư hai
điều, một là giảng cho một tháng kinh Nhân Vương Bát Nhã, hai là được cùng pháp
sư kết nghĩa anh em. Ngài Huyền Trang sợ Khúc Văn Thái không giữ lời, mới yêu
cầu vua thề trước bàn Phật. Khúc Văn Thái ngoan ngoãn làm theo và Ngài Huyền
Trang lại ăn uống như cũ. Theo lời yêu cầu của vua Ngài ở lại thêm một tháng để
giảng kinh Nhân Vương Bát Nhã. Khúc Văn Thái truyền dựng một cái lều có thể
chứa được 300 thính giả. Vua, Hoàng Hậu các trưởng lão Hoà thượng đình thần đều
đến nghe giảng một cách kinh cẩn. Mỗi ngày, đến giờ giảng, vua thân hành bưng
một lư hương, đến thỉnh Ngài và rước Ngài đến diễn đàn. Đến rồi, vua quỳ xuống
đỡ chân Ngài lên ngồi vào pháp toà. Trước khi Ngài lên đường, Khúc Văn Thái sắm
sửa các thứ cần dùng cho Ngài không thiếu một thứ gì, và có thể dùng đi xa
trong khoảng 20 năm. Vua truyền cho bốn vị sa di và 25 thủ hạ lực lưỡng theo
hầu Ngài. Chế 30 bộ áo rét, bao tay, nịt chân, khăn trùm, lại biếu Ngài 100
lượng vàng, 30.000 ngân tiền, 500 tấm lãnh và 30 con ngựa. Nhưng điều quý nhất
cho Ngài trong chuyến đi này là 24 bức thư cho 24 quốc Vương mà Ngài sắp đi qua
để yêu cầu họ giúp đỡ Ngài. Mỗi một bức thư lại kèm theo một tấm lãnh để làm
tín. Riêng đối với vua Đột Quyết là một nước mạnh nhất trong miền Trung Á, vua
phái một viên tướng đưa Ngài sang và cùng với 500 tấm lụa và lãnh, hai xe các
thứ hoa quả cùng đồ quý giá với một bức thư giới thiệu Ngài Huyền Trang và vua
nước ấy là Diệp Hộ. Trong thư vua giới thiệu Ngài Huyền Trang là em của vua, đi
cầu pháp ở bên nước Bà La Môn, xin vua rộng thương pháp sư cũng như tôi, và xin
vua sắc cho các nước phương Tây cấp cho pháp sư ngựa ô lạc (ngựa trạm) để đưa
ra khỏi bờ cõi.
Cả
triều, cả tăng lữ đưa Ngài ra khỏi cửa thành Tây. Huyền Trang cảm tấm lòng
thành của nhà vua hứa trên đường về sẽ ghé thăm ở lại, rồi bùi ngùi ngài lên
ngựa. Lúc sắp lên ngựa, vua nắm chặt tay Ngài và khóc to, mọi người đều không
cầm được giọt lệ. Nhưng dù cảm tình có sâu đậm bao nhiêu cũng không thể bịn rịn
mãi được. Ngài quay lưng ra đi, Khúc Văn Thái đứng nhìn theo cho đến khi cát
bụi và nước mắt làm mờ hẳn hình bóng Ngài trên đường, mới sụt sùi trở về cung.
Lúc chia tay Ngài Huyền Trang hứa lúc về sẽ ghé thăm, nhưng sau này Ngài không
giữ được lời hứa, vì lúc đó bộ lạc Khúc Văn Thái đã bị diệt vong bởi Đường Thái
Tông. Bắt đầu từ đây danh tiếng của Ngài được mọi người biết đến, cuộc hành
trình của Ngài được dễ dàng hơn trước nhiều, được mọi người đón đưa long trọng.
Khúc Văn Thái đã có công lớn trong cuộc thỉnh kinh của Ngài. Ngài Huyền Trang
khi ra đi là một kẻ phạm pháp của triều đình, đêm ngày trốn tránh như một tên
tù vượt ngục. Từ đây, do lòng kiên quyết của mình và lòng thành của vua Cao
Xương, nghiểm nhiên Ngài trở thành một quốc khách của các nước Trung Á và được
họ giúp đỡ đưa đến tận biên giới xứ Ấn Độ.
Phần VII. QUA 24 NƯỚC TRUNG Á VÀ VƯỢT QUA TUYẾT SƠN
Từ Cao Xương, Ngài Huyền Trang đi về
phía Tây, sang nước A Ky Ni (Nay là huyện Yên Kỳ, xứ Tân Cương). Nước Cao Xương
và A Ky Ni là hai nước láng giềng, nhưng đường đi rất nguy hiểm, vì có nhiều
bọn cướp hoành hành. Giữa đường Ngài nhận thấy có nhiều thi hài của bọn lái
buôn giàu có, vì muốn vượt đi trước đồng hành của mình để bán cho được giá, nên
đã bị bọn cướp giết. Chính Ngài cũng bị một toán cướp đón đường mãi lộ.
Khi đến kinh đô A Ky Ni, vua nước ấy
cũng là một tín đồ nhiệt thành, đem cả đình thần ra nghinh đón Ngài và mời vào
cung. Vua truyền cung cấp cho Ngài những thứ cần thiết để đi đường và tiếp đãi
Ngài rất chu đáo. Nhưng vua chỉ hậu đãi một mình Ngài mà thôi, còn những người
nước cao Xương đi hộ tống đều không được tá túc và cũng không được cung cấp
ngựa trạm, vì giữa 2 nước này thường hay có những vụ xung đột về biên giới.
Ngài Huyền Trang chỉ nghỉ tại đây một đêm, và sáng hôm sau lên đường tiếp tục
cuộc hành trình.
Ngài vượt qua con sông lớn Gia Hà,
vòng quanh chân núi Ngân Sơn, và vào nước Khuất Chi (hay Nhục Chi hoặc Quy Tư).
Khuất Chi là một nước phồn thịnh, có một nền văn hoá tiến bộ. Dân nước này theo
Tiểu Thừa Phật Giáo. Chính ở đây 2 thế kỷ trước đã xuất hiện một vị Tổ sư danh
tiếng là Ngài Cu Ma La
Thập. Thân phụ Ngài là người Ấn Độ, thân nẫu Ngài là bà công chúa của nước
Khuất Chi. Khi còn nhỏ Ngài sang học đạo ở Ấn Độ, đến 20 tuổi Ngài trở về Khuất
Chi. Một đạo quân viễn chinh của Trung Hoa sang xâm chiếm nước này và bắt Ngài
về Trung Hoa. Ở đây Ngài truyền giáo Đại Thừa và phiên dịch kinh điển từ chữ
Phạn ra chữ Hán.
Ngài Huyền Trang đến đây không khỏi
thành kính gợi lại kỷ niệm của vị Tổ sư đã cùng một chí nguyện như mình đã du
nhập và phiên dịch kinh điển từ Ấn Độ sang Trung Hoa. Vua nước này cũng là một
tín đồ Phật Giáo theo phái Tiểu Thừa. Nghe tin Ngài đến, vua cùng đình thần và
tăng lữ trong xứ ra nghinh tiếp rất trọng thể. Khi đám rước vào thành, một vị
tăng già dâng cho Ngài một liễn hoa tươi để Ngài rải trước tượng Phật và làm lễ
bái yết. Ở đây Ngài gặp sự bất đồng ý kiến về giáo lý giữa ngài và vị trưởng
lão hoà thượng rất có danh tiếng là Ngài Mộc Xoa Cúc Đa. Vị danh sư này theo
phái Tiểu Thừa, đã du học ở Ấn Độ 20 năm, hiện là quốc sư của vua nước Khuất
Chi. Ngài Huyền Trang ở lại nước Khuất Chi 60 ngày vì tuyết đang còn bao phủ
núi Thống Lĩnh chưa thể đi được. Nhân lúc lưu lại 2 tháng, Ngài có dịp ghi chép
những phong tục tập quán và những nhận xét về văn minh ở đây, lưu lại những tài
liệu rất quý cho các nhà khảo cổ sau này. Vương quốc đó rộng khoảng 1000 dặm,
từ Đông qua tây, và từ Nam tới Bắc 600 dặm. Chu vi kinh đô đo được 17- 18 dặm,
đất trồng lúa mạch kê đỏ, nho làm rượu, dân thuần lương, văn tự phỏng theo của
Ấn Độ, âm nhạc tiến xa hơn nước láng giềng nhiều. Vị trí nằm trên đường tơ lụa
từ La Mã đến Trung Hoa nên phố xá buôn bán rất thịnh, hàng phú gia bằng những
hàng gấm vóc rực rỡ.
Tuy rằng không đồng ý với nhau về giáo
lý Tiểu Thừa, nhưng trong thời gian lưu lại này, 2 vị thường lui tới đàm đạo
giáo lý với nhau. Nhờ sự gặp gỡ đó Ngài biết thêm nhiều về Đạo Phật và ở Ấn Độ.
Đôi khi đàm luận, có lần biện luận gay gắt xảy ra. Ngài Mộc Xoa Cúc Đa cho rằng
giáo lý Tiểu Thừa mới chính thức do Phật Thích Ca nói ra. Còn giáo lý Đại Thừa
là thứ nguỵ tạo. Nếu là chơn chính đệ tử Phật thì không nên đọc và học. Với sự
uyên bác thấm sâu giáo lý Đại Thừa và sự hùng biện của Ngài Huyền Trang, cuối
cùng Mộc Xoa Cúc Đa cũng nhìn nhận ra rằng vì hòa thượng Trung Quốc này học
thức cao rộng khó có người đối đáp nổi. Sợ rằng ở Ấn Độ vị tất đã có vị học giả
nào uyên bác sánh kịp.
Khi tuyết bắt đầu tan Ngài tiếp tục
cuộc hành trình. Lúc từ giả Khuất Chi, vua nước này cấp cho Ngài những bộ hạ
theo hầu, lạc đà, ngựa, cả một lữ đoàn, và cùng tăng lữ và tín đồ tiễn Ngài ra
xa ngoài kinh thành. Ngài Huyền Trang từ Khuất Chi đi về phía Tây 60 dặm, qua
một sa mạc nhỏ, đến nước Bộc Lộc Già và A Khắc Tố thuộc Tân Cương. Ngài trọ ở
đây 1 đêm rồi đi tiếp về phía Tây, đến núi Tăng Sơn thuộc Thông Lĩnh (Thiên
Sơn). Đường đi qua núi này rất cheo leo, nguy hiểm. Núi cao như chọc trời,
quanh năm đều có tuyết phủ, băng tuyết trùng điệp chạy dài đến tận chân trời và
lẫn với mây. Có nhiều phiến đá khổng lồ chận cả lối đi, muốn vượt qua, thật là
nguy hiểm. Suốt ngày chỉ nghe tiếng gió reo, và tuyết theo gió, đổ xuống từng
trận. Giá rét căm căm mặc bao nhiêu lớp áo cừu vẫn thấy lạnh buốt đến xương
tuỷ. Lữ hành phải dò từng bước một, khi thì bám sát vào vách đá cheo leo, khi thì
đu cả người từ mỏm đá này sang mỏm đá khác. Không có một chỗ nào khô ráo, muốn
nấu ăn thì phải treo nồi lủng lẳng giữa hư không, muốn nằm ngủ thì phải trải
chiếu trên băng tuyết. Đoàn lữ hành của Ngài phải đi trong 7 ngày 7 đêm mới ra
khỏi dãy núi ấy. Đoàn người đi hộ tống Ngài, có kẻ không chịu nổi khổ sở, nửa
đường đã bỏ trốn về, có người chết rét ở giữa núi, lừa và ngựa lại càng chết
nhiều hơn. Kiểm điểm lại chỉ còn mấy người theo Ngài. Đoàn Ngài Huyền Trang qua
núi Thống Lãnh này cao 7000 m, trong núi Thiên Sơn. Ngài tả dãy núi này rất kỹ,
nó rất nguy hiểm, ngọn núi cao đụng trời, từ khai sơn lập địa tuyết phủ quanh
năm không tan, băng trải thành từng lớp rực rỡ tới tận chân trời lẫn với mây,
nhìn chói mắt, leo trèo thật khó khăn nguy hiểm, lại thêm lúc nào cũng có cơn
giông tuyết, thành thử dưới giày có 2 lớp da mặt đủ áo bằng lông cừu cũng vẫn
run cầm cập, muốn ăn hoặc ngủ không có chỗ nào khô để chân, chỉ có cách treo
nồi chỗ nào đó để nấu ăn. Vì thế đoàn leo núi của Ngài chết hơn chục người, vì
đói lạnh, chỉ còn lại lơ thơ ít người.
Ra khỏi dãy núi Thiên Sơn, Ngài theo
dòng sông Cáp Lạp Thập, vượt qua núi Khánh Lạt Côn Luân đến một cái hồ lớn gọi
là Nhiệt Hải thuộc tiểu bang nước Liên Xô. Hồ này được gọi tên như thế vì tương
đối ít lạnh hơn các vùng lân cận và không bao giờ có băng giá. Hồ rộng, chu vi
có trên 1000 dặm, xung quanh bao bọc toàn núi, có nhiều sông suối đổ vào. Nước
mặn và có màu xanh đen. Nước chảy xoáy và luôn rạt rào sóng cả. Ngài Huyền
Trang đi theo bờ hồ về phía Tây Bắc độ 500 dặm, đến thành Tô Diệp (thuộc một
tiểu bang của Liên Xô), Ngài gặp Đại Vương của nước Đột Quyết là Diệp Hộ đang
đi săn ở đấy. Diệp Hộ là một đại vương có rất nhiều uy quyền và nhiều chư hầu
trong vùng Trung Á này. Chính Khúc Văn Thái đã ân cần dâng thư giới thiệu Ngài
Huyền Trang với Diệp Hộ.
Khi Ngài Huyền Trang đến thì gặp Diệp
Hộ đang cùng triều thần cỡi ngựa đi săn về. Vị vua này đầu quấn khăn lụa, để
thông hai dải dài ra sau, mặc áo choàng bằng sa tanh xanh, oai phong lẫm liệt
ngồi trên ngựa, quanh mình có trên 200 dũng tướng theo hầu. Những người này để
tóc búi, mặc áo choàng bằng gấm. Theo sau là quân lính cưỡi ngựa, hoặc lạc đà,
mặc áo bằng lông thú, mang giáo mác, cung tên, đi thành đoàn dài. Diệp Hộ sau
khi được thư giới thiệu của Khúc Văn Thái, mời Ngài Huyền trang về doanh trại
của mình ở Tô Điệp. Vua ở trong một cái lều bằng nỉ rất lớn có kết hoa bằng
vàng. Vua ngồi ở giữa và trong cùng, trước mặt là 2 hàng dũng tướng, ngồi xếp
bằng trên những chiếc chiếu, sau lưng các vị tướng này là 2 hàng ngự lâm quân,
khí giới sáng loà, nghiêm chỉnh đứng hầu. Vua thiết tiệc khoản đãi Ngài Huyền
Trang và các sứ giả của vua Cao Xương. Chỉ riêng Ngài Huyền Trang được ngồi
trên một chiếc ghế bành có tay dựa, còn những sứ giả khác thì ngồi chung với
các tướng lĩnh. Rượu và những khúc thịt cừu và bê thui được đặt chồng chất
trước mặt các tân khách. Riêng Ngài Huyền Trang thì vua truyền dọn những thức
chay như bánh ngọt bột gạo, sữa, đường mật ong, nho. Trong lúc ăn có ca nhạc.
Sau buổi tiệc, vua kính cẩn thỉnh Ngài Huyền Trang giảng cho một thời Phật
Pháp. Ngài giảng về thuyết từ bi và những phương pháp tu hành để được giải
thoát và giác ngộ. Nghe xong, vua đứng dậy đảnh lễ Ngài và với vẻ mặt hoan hỷ,
cam kết xin thọ lãnh những lời Ngài dạy. Nhưng cũng như vua Khúc Văn Thái nước
Cao Xương, vua Diệp Hộ cũng yêu cầu Ngài đừng tiếp tục cuộc hành trình sang Tây
trúc nữa. Ông nói :
- Bạch pháp sư, đệ tử khuyên Ngài đừng
sang Tây Trúc nữa. Xứ ấy mùa Đông cũng như mùa hạ khí hậu quá nóng bức. Đệ tử
sợ rằng pháp sư đến đấy thì mặt mũi Ngài sẽ tan ra thành nước mất. Dân cư ở đấy
đen đíu và phần nhiều trần truồng như nhộng, không biết lễ nghĩa là gì. Thật
không đáng để cho Ngài phải mệt sức đi đến xứ ấy.
Ngài Huyền Trang trả lời một cách nhẹ
nhàng :
- Tâu Đại Vương, bần tăng chỉ muốn
sang đấy để mưu tầm giáo lý và thỉnh kinh Phật chứ không có mục đích gì khác.
Bần tăng nóng lòng muốn đi tìm dấu vét của đức Bổn Sư, xin Đại Vương hãy cho
bần tăng được như nguyện.
Vua Diệp Hộ không cản trở nữa, và sai
quan biên thư gửi gắm Ngài với các nước chư hầu mà Ngài sắp đi qua, và cho
người thông ngôn đi theo Ngài nữa. Ngài Huyền Trang từ tạ vua Diệp Hộ ra đi.
Không thể ngờ lần ấy là lần vĩnh biệt. Vì mấy tháng sau, vua Diệp Hộ bị mưu sát
và nước Đột Quyết hùng mạnh bị phân chia thành nhiều mảnh.
Từ giã nước Đột Quyết, Ngài đi tiếp
sang phía Tây, đến Thiên Toàn là một xứ phì nhiêu, ba mặt đều là đồng bằng,
phía Nam giáp núi tuyết. Ở đây có đến nghìn suối nước nên gọi là Thiên Toàn.
Khí hậu điều hoà.
Ngài
đi tiếp đến nước Chữ Thì, thuộc nước cộng hoà Cát Nhĩ Cát Tư (Liên Xô bây giờ).
Dân nước này khi theo đạo Phật, khi theo đạo thờ lửa. Lúc Ngài mới vào nước
này, một số dân chúng nắm những thanh củi đỏ đuổi theo Ngài. Vua cũng tiếp Ngài
một cách lạnh nhạt. Nhưng ngày hôm sau, Ngài Huyền Trang xin phép giảng một
thời kinh, và sau khi nghe, vua bỗng đổi thái độ, tỏ ra rất niềm nở đối với
Ngài và truyền bắt những kẻ đã nắm lửa đuổi theo Ngài hôm trước đem ra chặt tay
chặt chân. Nhưng Ngài Huyền Trang động lòng từ bi, xin vua giảm tội, bằng cách
đánh mỗi người mấy trượng thôi. Sau vụ trừng phạt ấy, dân chúng đủ các hạng,
vừa sợ vừa cảm phục lòng đại độ của Ngài Huyền Trang, đến xin quy y với Ngài
rất nhiều. Ngài liền triệu tập một hội nghị các tăng già. sắp đặt lại ngôi thứ
trong giáo hội và chấn chỉnh lại những ngôi chùa đã bị ngoại đạo xâm chiếm.
Từ
giã nước này, Ngài đi về phía Nam, trên 300 dặm đường núi non hiểm trở. Dọc
đường không thấy có nước và cây cỏ. Từ đây con đường mỗi lúc một tăng thêm khó
khăn, nguy hiểm, vì là sắp gần đến dãy núi đồ sộ và cao nhất thế giới là Hy Mã
Lạp Sơn. Trước tiên, Ngài phải vượt nốt các đoạn đường khó khăn của dãy núi Ba
Đạt Khắc là Đèo Thiết Môn. Hai bên là vách đá thẳng vút, cao đến nghìn trượng,
giữa chỉ có một lối đi nhỏ hẹp quanh co hiểm hóc. Nếu vô ý trật chân có thể rơi
xuống hố sâu và thân hình nát như cám. Sắt đá đen xanh như sắt, ở lối đi vào
hang núi có một cái cửa có hai cánh bằng sắt, ở phía trên cửa có treo nhiều
chuông nhỏ. Ra khỏi núi này, là đến nước Thổ Hoa La (địa giới nước A Phú Hản
ngày nay). Đáng lẽ đi thẳng về phía Nam để sang Ấn Độ. Ngài rẽ về phía nước Tất
Già Thì (thuộc xứ Batrane, nước A- Phú - Hản) Ngài muốn đến thăm vị vua nước
này, là con ruột của vua Diệp Hộ nước Đột Quyết và là con rễ của vua Khúc Văn
Thái, nước Cao Xương. Ngài đem tin tức và thư từ của hai vị vua này đến cho
tiểu vương Tất Già Thì. Nhưng khi Ngài đến đây thì nội biến trong Hoàng cung
đang xẩy ra. Nguyên là vợ của vua này tức con gái của vua Cao Xương, vừa mất
thì vị tiểu vương này liền lấy một người vợ kế. Bà sau này trước kia là tình
nhân của vị hoàng tử con bà vợ trước, vì
thế bà sau này có âm mưu giết vua và đặt hoàng tử, tình nhân của mình lên ngôi.
Vị tiểu vương mới này cũng rất hậu đãi Ngài Huyền Trang, vua mời Ngài đi đến
thành tiểu vương xá là một nơi có nhiều di tích Phật Giáo. Thành này bây giờ đã
hoang phế điêu tàn. Nhưng trong thời gian ngài Huyền Trang đi qua, thì đây là
một thành phố phồn thịnh có trên 100 Tịnh Xá, chứa gần 3.000 tăng thuộc phái
Tiểu Thừa. Trong các chùa có rất nhiều di tích của đức Phật Thích Ca. Trong số
các vị sư ở đây có rất nhiều vị rất tinh thông giáo lý Tiểu Thừa. Chính ở tại
đây, Ngài Huyền Trang đã học hỏi rất nhiều về những bộ kinh chính yếu của giáo
phái này.
Ở
đây, Ngài gặp được một vị sư trẻ tuổi và thông thái là Tuệ Tĩnh người nước Thổ
Hoà La. Vị này tôn Ngài làm sư phụ và tình nguyện cùng đi theo Ngài sang Ấn Độ.
Đây cũng là điều may mắn cho Ngài, vì Ngài sắp vượt qua Hy Mã Lạp Sơn mà những
người theo hộ tống Ngài từ nước Đột Quyết thì đã quay về hết rồi.
Hai
thầy trò đi về phía Đông Nam, trèo lên dãy Tuyết Sơn . Con đường núi này thật
muôn vàn hiểm trở hơn tất cả những đoạn đã đi qua. Núi luôn luôn có tuyết phủ,
vì thế nên người Trung Hoa gọi là Tuyết Sơn. Sương tuyết phủ mờ tất cả, người
ta có cảm tưởng đi trong trăng mờ, thỉnh thoảng may ra mới có được một khoảng
bằng phẳng độ 4, 5 thước vuông. Núi lởm chởm nằm ngang lưng trời, mất hút trong
mây, lạnh thấm đến cốt tuỷ. Hai người đi như thế trên 2.000 dặm, chịu đựng biết
bao gian khổ mới đến được Ba Mi Đăng, là một xứ nằm cheo leo trên đỉnh núi,
giữa con đường đi qua Hy M· Lạp Sơn.
Xứ này cũng theo Phật Giáo Tiểu Thừa, có
độ 10 ngôi chùa và mấy ngàn Tăng đồ.
Đến
đây, Tuệ Tĩnh người đệ tử mới của Ngài bị vua nước Thổ Hoà La cho người đến
thỉnh về. Tuệ Tĩnh đành phải luyến tiếc từ giã Ngài trở lui.
Từ
đây, Ngài chỉ một mình tiếp tục cuộc hành trình qua núi tuyết, đi 600 dặm về
phía Đông Nam, có một lần Ngài bị lạc trong núi, may nhờ có những người đi săn
đưa Ngài ra đường chính. Sau khi vượt qua Tuyết Sơn, Ngài bắt đầu đặt chân lên
Hắc Lĩnh, tøc là những
ngọn núi về phía Nam Hy Mã Lạp Sơn sát biên giới Bắc Ấn Độ. Sau khi vượt qua
Hắc Lĩnh, Ngài đặt chân vào địa đầu biên giới Bắc Ấn Độ.
Kể
từ nước Cao Xương ®ến Đây,
Ngài Huyền Trang đã đi qua 24 nước lớn nhỏ ở Trung Á giữa hai biên giới Trung
Hoa và Ấn Độ, và đã vượt qua dãy núi cao nhất thế giới là Hy Mã Lạp Sơn.
Phần VII. VIÕNG BẮC ẤN ĐỘ
Đặt
chân vào Ấn Độ, Ngài đi ngang qua 2 Tiểu quốc là Ca Bi Ca và Lăm Ba. Là những
nước thuộc Tiểu Thừa Phật Giáo. Sau khi ở đấy vài tháng để nghiên cứu kinh điển
Tiểu Thừa, Ngài đến một nước rất hùng cường trong 5 xứ Ấn Độ thời xưa là Kiền
Đà La. Nước này trong quá khứ đã có những vị vua anh hùng cái thế và rất sùng
mộ ®ạo Phật như vua Di Lan Đà (Ni lan
da), Già Nhị Sắc Già (Ka nish ka).
Nước
này cũng là quê hương của những vị luận sư xuất chúng, hay những Tổ Sư đã sáng
lập các Tông Phái như Ngài Na – Tiªn-Tỳ Kheo,
Pháp Cữu, Như Ý, Hiếp Tôn Giả.
Trước
khi đến nước này, Ngài nghe nói có một cái hang mà bóng đức Phật Thích Ca
thường hay xuất hiện nên Ngài định đến chiêm ngưỡng. Hang này, theo người ta kể
lại là nơi đức Phật đã hàng phục con Long thần Go Pa La và còn để lại hình bóng
Ngài. Nhưng con đường đến hang ấy rất hoang vu và có nhiều trộm cướp hoành
hành. Từ bấy năm rồi không còn ai dám đến đấy nữa. Những người đồng hành với
Ngài đều khuyên Ngài không nên ghé đến. Ngài trả lời: - "Trong mấy ngàn A
Tăng kỳ kiếp, chưa chắc đã có một lần thấy được hình ảnh của Phật. Tôi đã đến
đây, làm sao không thể đến chiêm ngưỡng được?. Các Ngài cứ đi trước đi, tôi ghé
đây chút rồi đi sau."
Nói
xong, Ngài một mình rẽ đi về phía hang bóng phật. Khi Ngài đến một ngôi chùa
gần đấy, không ai dám dẫn Ngài đi, Ngài đành đi một mình. Giữa đường, Ngài gặp
một ông già bằng lòng hướng dẫn Ngài đến hang. Đi được vài dặm, hai người gặp 5
tên cướp tay nắm giáo mác đang tiến về phía Ngài. Ngài cÊt mũ và chỉ vào bộ áo quần nhà sư của mình. Bọn cướp
hỏi:
-
Nhà sư muốn đi đâu?
-
Tôi muốn đi chiêm bái bóng đức Phật.
-
Nhà sư không biết rằng trong vùng này lắm kẻ cướp sao?
Ngài
ôn tồn trả lời.
-
Kẻ cướp cũng là người. Tôi đi chiêm bái đức Phật thì dù có gặp thú dữ, rắn độc,
tôi cũng không sợ. Các anh là người, nghĩa là trong lòng đã có sẵn mầm từ bi,
sao tôi lại sợ?
Bọn
cướp nghe Ngài nói rất cảm kích và tình nguyện đi theo Ngài đến hang. Hang này
ở phía Đông một dãi suối chảy giữa hai trái núi. Cửa hang mở ra một thành đá,
Ngài nhìn vào cửa hang không thấy gì khác hơn là một khoảng tối om. Ông già bảo
Ngài "Pháp sư hãy đi vào trong, khi Ngài đến đụng vách đá phía đông. Ngài
hãy lùi lại khoảng 50 bước và đứng nhìn vào vách đá, sẽ thấy bóng đức Như Lai.
Ngài
Huyền Trang đi vào một mình, làm như lời ông lão dặn. Ngài xoay mặt về phía
vách đá, lạy 100 lạy, nhưng vẫn không thấy gì. Ngài oà lên khóc vì thấy mình
bạc phước và chứa nhiều tội lỗi nên không được bóng đức Phật hiện ra. Bấy giờ
với một tấm lòng thần khẩn. Ngài tụng những bài sám hối và sau mỗi đoạn lại
đảnh lễ Phật. Quả thật, sự linh diệu bắt đầu xuất hiện ra. Sau khi Ngài đã lạy
trên 100 lạy, một điểm sáng và vụt tắt ngay. Vừa mừng vừa tủi, Ngài lạy nữa và
lần này, Ngài thấy một khoảng sáng lớn bằng cái thau xuất hiện rồi vụt tắt,
nhanh như chớp. Bấy giờ lòng tràn ngập hân hoan và thành kính. Ngài thề nguyện
quyết tâm ở lại đây mãi cho đến lúc nào thấy được hình bóng thiêng liêng của
đức Phật mới thôi. Ngài tiếp tục niệm và thành kính, tất cả hang đá đều sáng
rực lên và hình ảnh đức Phật Như Lai hiện ra trắng toát. Một đường ánh sáng
viền quanh khuôn mặt đầy giác ngộ, thân hình Ngài và chiếc y rực lên một màu
sáng chói. Từ hai đầu gối Ngài trở lên, những tướng tốt hiện ra trong ánh sáng,
nhưng phía dưới toà sen ánh sáng mờ nhạt như ánh sáng hoàng hôn. Hai bên tả,
hữu Ngài có rất nhiều hình bóng của các vị Bồ Tát. Ngài Huyền Trang ngây ngất
đứng nhìn những hình ảnh nhiệm mầu, thiêng liêng ấy một hồi rồi gọi 6 người đi
theo ngài đứng ngoài cửa hang, đem đèn đuốc và hương hoa vào thì đức Như Lai
biến mất. Ngài Huyền Trang bảo tắt đèn đuốc và hình ảnh trước lại xuất hiện.
Trong 6 người đi theo Ngài, ông lão và 5 tên cướp chỉ có 5 người nhận thấy hình
bóng đức Phật, còn một trong 5 tên cướp không nhìn thấy gì hết.
Ngài
Huyền Trang quỳ xuống dâng hương hoa và tán thán Đức Phật một hồi thì bóng đức
Phật tắt hẳn. Ngài lạy tạ rồi đi ra.
Sau
khi được chứng kiến rõ ràng hiện tượng
kì diệu ấy, Ngài Huyền Trang đi thẳng đến nước Kiền Đà La (Bắc Ấn Độ). Ở
đây, trước kia là nơi chứa rất nhiều di tích Phật Giáo. Hoàng đế Ca Ni Sắc Ca
(Kanishka) xưa kia có dựng trong vùng trong vùng này trên 1000 tịnh xá để chư
tăng ở. Nhưng khi Ngài Huyền Trang đến đây thì quang cảnh thật là buồn bã,
hoang phế. Dân cư thưa thớt, dinh thự, đình đài, tịnh xá, thành quách đều bị
quân Hung Nô nhiều lần đến tàn phá. Những di tích quý báu của đức Phật đều bị
cướp đem đi. Cho đến cái bảo vật quý nhất là bình bát mà xưa kia lúc đức Phật
còn tại thế đã dùng đi khất thực cũng không còn.
Trong
hơn 1000 tịnh xá trước kia, nay chỉ còn lại một cái. Đó là tịnh xá mà Đại Đế Ca
Ni Sắc Ca đã dựng lên cho Ngài Hiếp Tôn Giả. Sau khi lễ bái các Phật tích ở đây
và đem các tặng phẩm mà Nhà vua Cao Xương đã biếu cho Ngài như vàng, bạc, lụa
là, y phục…, phân phát cho các tu viện, Ngài Huyền Trang đi lần về phía Đông
Nam. Ngài đi đến nước Ca Thấp Di La. Vị trí nước này ở phía Tây dãy Hi Mã Lạp
Sơn, thượng lưu sông Na Bô và sông Xa-Lâm. Là những chi lưu của sông Ấn Độ,
diện tích độ 1.900 dặm vuông anh. Nước này là nơi phát nguyªn Đại Thừa Phật Giáo. Trong thời vua A-Dục trị vì Ngài
đã đặt ở đây thủ đô của tỉnh miền Tây Bắc và cử Hoàng tử Càn Na La, con Ngài
làm thủ hiến vùng này.
Trong
thời Ngài Huyền Trang đến đây, ảnh hưởng của phật giáo Đại Thừa vẩn còn đang
mạnh mẽ trong dân chúng. Khi Ngài đến gần kinh thành, vua nước ấy thân chinh
đem triều thần, tăng chúng, quân lính ra nghênh đón. Có trên 1000 người cờ quạt
ngập trời, hương hoa đầy đất. Vua thân hành tới trước mặt Ngài, rải hoa dưới
chân Ngài và mời Ngài lên ngồi trên một thớt voi lớn, còn Ngài và đám rước thì
đi theo sau. Sau khi biết được ý định của Ngài sang Ấn Độ để sưu tầm kinh điển,
vua truyền cho 20 người th¬ lại đi
theo Ngài để biên chép. Ngài đến trọ tại một ngôi chùa Amira trong kinh thµnh. Chùa này có 30 vạn hiến kinh cộng 96 vạn câu và
một vị tăng đã 70 tuổi là Xưng lão pháp sư rất tinh thông kinh điển Đại Thừa.
Ngài ở đây biên chép kinh điển và theo học với vị cao tăng này trong hai năm.
Ngài đã tìm thấy ở đây một vị sư xứng đáng với hoài bảo của mình. Ngài thường
ca ngợi vị sư này là người nghiêm trì giới luật, thông minh xuất chúng, học
thức uyên thâm và đức hạnh hoàn toàn. Do sự mến phục ấy, Ngài theo học với vị
cao tăng đêm ngày không biết mệt mỏi. Và vị cao tăng này, khi Ngài Huyền Trang
từ giả ra đi, đã tuyên bố với đại chúng rằng:" Thầy tăng người Trung Hoa
này trí lực hoằng thâm, trong bọn chúng ta không ai hơn được. Ông là người
thông minh đức độ, đủ nèi được cái
phong thái và sự nghiệp của anh em Thân Thế Bồ Tát".
Ngài
diễn tả xứ sở nước ấy khí hậu phong tục đều khác hơn các miền trước, dân chúng
thì vui vẻ thích ca hát, dáng người tuy nhỏ nhưng nhanh nhẹn, áo màu rực rỡ,
đúng dân tộc Ấn Độ , khí hậu hơi nóng, cây cối mọc um tùm và có nhiều khỉ. Ngài
đến Ca Xi La, Thuộc về Kasmia tạm dịch là Kế Tân, Ca Thấp Di La một nước rất
thuần đạo, có khoảng 100 chùa và 5.000 sư, chính nơi đó là nơi phát nguyªn phái Đại Thừa sang Trung Hoa. Nhà vua nghe Huyền
Trang cũng theo phái Đại Thừa nên rất kính trọng , thân hành ra biên giới mà
thỉnh lên ngồi trên lưng voi, một thớt tượng cùng song hành qua kinh đô, nơi
đây Ngài gặp được một pháp sư đã 70 tuổi rất làu thông Tam Tạng, lại tìm được
rất nhiều kinh điển, Huyền Trang ở lại Kasmia hai năm để học đạo, trò rất kính
thầy và thầy rất mến trò, thầy trò tương đắc lẫn nhau, khi đã hiểu rõ kinh điển
rồi, Ngài từ giả vua và thầy học để đi về đất phật.
Phần VIII. TRÊN ĐƯỜNG ĐI ĐẾN CÁC THÁNH ĐỊA PHẬT GIÁO
Tính
ra Ngài Huyền Trang xa quê hương trải qua biết bao gian lao hơn gần 4 năm nhưng
đã gần tới đích. Rời Kásmia đi được mấy ngày, qua một khu rừng rậm rạp và những
bạn đồng hành bị bọn cướp trÊn áp lột hết
hành trang, Ngài phải trốn trong một cái hang, sau nhờ có một đám nông dân hay
tin đến cứu đưa Ngài đến một chùa Bà La Môn nọ, ông chủ chùa này theo đạo Bà La
Môn nhưng cũng thích nghiên cứu đạo Phật. Huyền Trang xin ở lại một tháng để
tìm hiểu thêm về đạo Bà La Môn rồi mới đi. Từ đây cuộc du hành của Ngài gặp
nhiều thích thú vô cùng, tới đâu Ngài cũng gặp di tích của Phật, tha hồ mà đọc
kinh điển và thảo luận với các pháp sư và thỉnh giáo với các vị tu hành uyên
bác. Ấn Độ nổi tiếng là một xứ huyền bí, một phần vì địa thế, một phần vì tôn
giáo. Địa thế nước đó gần như tách biệt với các xứ xung quanh bởi phía Đông Tây
Nam là biển, phía Bắc có dãy Hy Mã Lạp Sơn cao chót vót rất bất tiện cho việc
giao thông. Về tôn giáo có hai đạo chính là đạo Bà La Môn và đạo Phật và một ít
là đạo Hồi từ Ba Tư truyền vào. Riêng đạo Bà La Môn và đạo Phật có rất nhiều
giáo phái và lý thuyết khác nhau. Đất đai rộng mênh mông như một lục địa nhỏ,
chia ra làm 100 nước, có nước nhỏ bằng 1% nước khác, vàng bạc châu báu rất
nhiều, đền chùa chỗ nào cũng có, dân rất mê tín, lại chia ra nhiều giai cấp, bộ
quý phái mơ mộng trong cung điện, hết đi săn thì hưởng thanh sắc, bọn Bà La Môn
chẳng làm việc gì, chỉ tu hành và rất được trọng vọng. Hạng thương nhân nhờ
giàu có mà được nể, hạng nông dân bị khinh bỉ như bọn nô lệ, cuối cùng là bọn
tiện dân Ba ri a bị các giai cấp kinh tợn, hơn là ta kinh tởn người cùi, đến
nỗi không ai dám đến gần họ và cái bóng của họ chiếu vào vật nào thì vật đó bị
nhơ bẩn, phải ném đi chỗ khác, không ai chịu mò vào. Tóm lại từ văn minh đến
phong tục khác hẳn Trung Hoa. Ngài Huyền Trang sống gần 10 năm trên đất Ấn,
Ngài có dịp đi khắp các nơi được trông thấy nhiều điều lạ, rồi lại nảy sinh ra
sự nhận xét vi tế, ghi lại các việc qua cuộc du hành, những sự việc mắt thấy
tai nghe thành tập Du Ký là một tài liệu quý giá chẳng những giúp cho người Trung
Hoa thời đó mà còn giúp cho nhiều học giả thời nay hiểu Ấn Độ nữa. Các nhà viết
sử rất thán phục Ngài về những nhận xết thật là chân chính nhất thời cổ. Ngài
Huyền Trang diễn tả sông Hằng y như một nhà khoa học và rất chính xác. Nguồn
sông rộng 3 dặm, gần cửa biển rộng 10 dặm nước bình thường, trong xanh nhưng
thường thay màu, mặt nước mênh mông, rất nhiều sinh vật kỳ dị trong sông, phần
nhiều không làm hại người, vị của nước ngọt và dễ chịu, cát mịn vô cùng. Người
bản xứ coi sông đó là một vị thần, người nào tắm nước sông thì gội hết tội lỗi,
nếu uống nước hay rửa mặt thôi cũng làm tiêu tan đi những khổ não nếu chết đuối
trên sông thì sẽ được lên trời, lúc nào ở bên bờ sông cũng có vô số người tụ
họp đàn ông lẫn đàn bà để cầu nguyện. Ngài cho như vậy là dị đoan, đối với
người tín đồ Ấn Độ giáo, sông Hằng là một con sông linh thiêng, bắt nguồn từ
trên trời mà chảy xuống đất. Mọi người đến từ sáng sớm tới chiều tối với nhiều
hạng người ra bờ sông, ngâm mình xuống nước để cầu nguyện để rửa tội.v.v…và cứ
như thế họ làm hết tháng này đến tháng khác, hết năm này qua năm nọ cho đến mãi
về sau với mục đích cầu giải tâm hồn thoát kiếp luân hồi.
Dọc
theo sông Hằng, Ngài Huyền Trang đi đến thành Khúc Nữ là kinh đô của nước Yết
Nhược Cúc Đồ. Nước này thuộc trung Ấn Độ, là miền đất có nhiều thánh tích đức
Phật Thích Ca. Khi Ngài Huyền Trang đến nước này là nước đang thời thịnh trị
dân cư giàu có, thái bình, vị vua đang trị vì nước này là Giới Nhật, là một
minh quân rất sùng mộ đạo Phật, có thể so sánh với A Dục Vương thời trước. Kinh
thần Khúc Nữ nằm trên bờ Tây sông Hằng có đến 100 ngôi chùa, tăng lữ có trên
vạn người. Khi Ngài Huyền Trang tới đây, vua Giới Nhật không có ở kinh đô, nên
không được vua tiếp đón như những nước mà Ngài đã đi qua. Ngài ở lại đây ba
tháng trọ lại chùa Bạt Đạt Di Kha La, để học hỏi Tam Tạng kinh điển. Sau ba
tháng ở lại thành Khúc Nữ, Ngài lại vượt sông Hằng đi về phía Đông, đến một
thành có nhiều di tích rÊt thân thiết ®èi với Ngài
đó là thành A-du-đà, thành này có danh rực rỡ của hai vị Bồ Tát có công lớn với
việc xiÓn dương giáo
lý Đại Thừa Phật Giáo là những vị đã thành lập ra môn Duy thức học, đó là hai
anh em Ngài Vô Trước và Thế Thân Bồ Tát, Ngài Vô Trước là anh tu theo phái Đại
Thừa, Ngài Thế Thân là em tu theo phái Tiểu Thừa.
Một
hôm Ngài Vô Trước mời em tới tịnh xá của mình tại rừng Xoài chơi. Đêm đến, Ngài
Vô Trước dẫn Ngài Thế Thân ra một cái gác dựng bên bờ sông, để em nằm hóng mát
còn mình thì trở vào. Đêm ấy là một đêm thu, có trăng rất đẹp, trăng và nước hoµ hợp trong một bầu trời thu, mênh mông huyền ảo. Bỗng
một giọng tụng niệm trong trẻo thanh thoát ngân lên, ngân lên, bay trong gió,
hoà hợp trong không trung. Đó là một bài luận về Đại Thừa, qua ý nghĩa bài luận,
thế giới vật chất như tan biến, mông lung, mộng ảo như ánh trăng, như hơi nước
đang bàn bạc trên sông. Trước mắt Ngài vật chất chỉ là thế, nghĩa là hư ảo, là
duy tâm, là duy thức. Ngài Thế Thân xúc động đến tận đáy lòng và cảm thông được
cái cao thâm huyền diệu của giáo lý Đại Thừa, Ngài vừa xấu hổ vừa hối hận, đi
vào nhà xin cắt lưỡi trước mặt anh để chuộc cái lỗi đã phỉ báng Đại Thừa. Ngài
Vô Trước can em: Sao lại cắt lưỡi? Em đã dùng cái lưỡi ấy để công kích Đại Thừa
thì nay cũng nên dùng cái lưỡi ấy để xiển dương Đại Thừa mới phải chứ!
Ngài
Thế Thân nghe theo lời anh dạy. Trước kia Ngài đã viết 500 bài luận về Tiểu
Thừa để kích bác Đại Thừa, thì từ đấy Ngài lại viết 500 bộ luận về Đại Thừa để
thuyết minh giáo lý Đại Thừa. Do đó người đời tôn xưng Ngài là "Thiên Bộ
Luận Sư" vị luận sư tạo 1.000 bộ luận. Ngài huyền Trang đến thăm tịnh xá
của hai vị Bồ Tát này, không thể không xúc động mãnh liệt vì giáo lý Duy thức
mà hai vị này đã phát huy ra trước Ngài hai thế kỷ, chính là giáo lý mà sau này
Ngài đã dùng làm cơ sở cho bộ luận Thµnh Duy Thức
đồ sộ của Ngài và là căn bản của pháp Tướng Tông. Từ giả tịnh xá và hai vị Bồ
Tát này, Ngài đi thuyền xuôi theo sông Hằng về phía Đông để tiếp tục viếng các
phật tích. Trong thuyền có tới 20 hành khách, thuyền xuôi theo dòng sông, độ
vài mươi dặm thì xẩy ra một tai nạn lớn, có thể nói là lớn nhất trong cả cuộc
hành trình của Ngài từ trước đến nay và có thể làm ngài bỏ xác nơi đây. Thuyền
đi vào một khúc sông, hai bên có nhiều cây cối rậm rạp. Dưới những tán cây đỗ ra
sông, có 10 chiếc ghe của bọn cướp đang ẩn núp đợi mồi. Khi thấy thuyền Ngài
gần đến, bọn cướp hò nhau bơi thuyền ra chặn đường. Nhiều hành khách sợ quá
nhảy ùm xuống sông và mất xác, những người còn lại bị đưa vào bờ và bị bọn cướp
lột hết quần áo, của cải. Bọn cướp này thờ "Durga" một nữ hung thần
thường bắt các đệ tử cuồng tín phải làm lễ hy sinh người sống cho mình. Thường
năm, đến mùa thu, họ tìm một nạn nhân, phần nhiều là đàn ông có hình dáng cân
đối, mặt mũi khôi ngô để lấy huyết và thịt dâng cúng cho nữ thần. Khi bọn cướp
này nhìn thấy Ngài Huyền Trang có khuôn mặt tuấn tú, hình dáng oai nghi, chúng
nhìn nhau mừng rỡ. Chúng nói với nhau: Chúng ta đã trễ quá thời hạn làm lễ tế
thần. Nhưng bây giờ chúng ta gặp được nhà sư mặt mũi khôi ngô thân hình đẹp đẽ
này, chúng ta hãy làm lễ tế ngay, để nữ thần ban phước.
Ngài
nghe nói bình thản trả lời "Nếu thân xác của bần tăng này đáp đúng ý
nguyện của các người, để dâng cúng cho nữ thần, bần tăng thật tình không dám
tiếc. Nhưng bần tăng từ phương xa lặn lội đến đây để chiêm bái các Phật tích
cung thỉnh các kinh điển và học hỏi giáo lý của đức Thích Ca. Sở nguyện thiết
tha ấy chưa thành, mà nay các người đành
tâm giết bần tăng thì bần tăng e rằng các người đã không được phúc mà trái lại
còn mang thêm nhiều tai hoạ".
Những
người hành khách quỳ xuống xin bọn cướp tha chết cho ngài. Nhưng bọn cướp đều
từ chối, tên đầu đảng truyền lệnh cho bộ hạ vào rừng lấy nước trong và dựng một
cái bàn thờ với đất bùn lấy ở dưới sông lên. Xong xuôi nó truyền hai tên thân
tín rút giáo lôi Ngài lên bàn thờ để làm lễ hy sinh ngay. Trong lúc đó sắc mặt
Ngài vẫn không đổi, bình thản như thường. Bọn cướp lấy làm ngạc nhiên và không
khỏi xúc động. Riêng Ngài, thì Ngài thấy giờ phút cuối cùng sắp đến, nên yêu
cầu bọn cướp trì hoãn cho Ngài một lúc để Ngài cầu nguyện và đừng lôi kéo Ngài
như thế. Ngài bảo:" Các ngươi hãy để cho bần tăng được nhập Niết Bàn một
cách thanh tịnh và hoan hỷ". Nói xong, Ngài ngồi kiết gìa, xưng tán đức Di
Lặc và chư Bồ Tát trong mười phương, mong cầu được nhập vào hàng thánh chúng để
được nghe pháp và giác ngộ hoàn toàn. Rồi Ngài lại nguyện sau khi được giác ngộ
sẽ trở về cõi Ta Bà này khai thị cho bọn cướp, đưa chúng về con đường chính và
làm các việc công đức để chuộc những lỗi lầm. Cuối cùng, Ngài nguyện sẽ hoá độ
toàn thể chúng sanh và đưa họ vào cảnh giới an lạc. Nguyện xong, Ngài nhập định
và chú toàn tâm lực vào đức Bồ Tát Di Lặc.
Bỗng
Ngài nhận thấy tâm hồn lâng lâng siêu thoát, như bay bỗng đến núi Tu Di và sau
khi lên đến tầng trời thứ ba. Ngài thấy đức Di Lặc đang ngồi trên toà sen rực
rỡ và quanh Ngài chư thiên đang ngồi nghe pháp. Trong khi tâm hồn Ngài còn đang
phiêu diêu trong cảnh giới thanh tịnh ấy, Ngài không còn nhận thấy rằng mình
đang ngồi trên bàn thờ tế nữ thần, bên cạnh bọn cướp khát máu đang nóng lòng
chờ đợi cắt da sẻ thịt mình và dưới chân Ngài, chung quanh Ngài, những người
đồng đội, đồng thuyền với mình đang khóc tiếc thương Ngài.
Bæng mét trËn cuång phong næi lªn, lµm c©y
cèi gÈy ng·, c¸t bôi tung ®Çy trêi, sãng cuån cuén gÇm thÐt vµ lËt óp ghe
thuyÒn trªn s«ng. Bän cíp ho¶ng sî, hái nh÷ng ngêi bé hµnh cïng ®I theo Ngµi.
-
Nhà sư này ở đâu đến và tên ông ta là gì?
Một
người trong đám hành khách trả lời.
-
Đó là một vị cao tăng từ Trung Hoa đi sang đây thỉnh kinh. Nếu các người giết vị
sư ấy thì tai hoạ lớn lao sẽ đến với các ngươi. Các ngươi thấy chưa, gió bão
đang nổi dậy đó chính là triệu chứng giận dữ của chư thiên trước hành động bạo
tàn
của các
ngươi. Các ngươi hãy mau hối cải mới được.
Bọn cướp sợ hãi, sụp quỳ xuống bên
chân Ngài xin tha tội, Ngài vẫn điềm nhiên tịnh toạ, không
nhận thÊy sự thay đổi
đột ngột đang xảy ra xung quanh mình. Một tên cướp xích lại gần nắm lấy chéo áo
của Ngài, Ngài mới sực tỉnh. Khi biết
được bọn cướp đã hoảng sợ mà đổi ý, Ngài nhận tin ấy một cách bình tĩnh không
thay đổi sắc mặt. Ngài khuyên bọn cướp cải Tà quy Chánh . Bọn cướp ngoan ngoãn
tuân theo và trận cuồng phong dịu dần rồi tắt hẳn.
Phần IX- CHIÊM BÁI CÁC PHẬT TÍCH
Sau
khi được toàn tính mạng và thoát khỏi tay bọn cướp hung ác một cách bất ngờ,
Ngài Huyền Trang đi về phía Đông Bắc là nơi có nhiều Phật tích quý báu, trong
số ấy có sáu đại thánh địa mà mọi phật tử, khi sang Ấn Độ hành hương, đều ao
ước được đến chiêm bái. Sáu đại thánh tích đó là: Vườn Lâm Tỳ Ni - nơi Đức Phật
giáng sinh, Thành Ca Tỳ La Vệ - nơi trưởng dưỡng Ngài khi chưa xuất gia, Bồ đề
đạo tràng - nơi Đức Phật thành Đạo, vườn Nai - nơi Ngài thuyết pháp lần đầu
tiên cho nhóm ông Kiều Trần Như, vườn Trúc Lâm hay Cấp Cô Độc nơi Ngài thường
thuyết Pháp và rừng Sa La Song Thọ - nơi Ngài nhập Niết Bàn.
Trong
cuộc chiêm bái của pháp sư Huyền Trang, Ngài không theo thứ tự, nhưng theo sự
thuận tiện trong cuộc hành trình mà tuần tự chiêm bái.
1. Chiêm bái vườn Trúc Lâm hay Cấp Cô Độc
Vườn
này có tên là Cấp Cô Độc vì do một vị trưởng giả giàu có, ông Tu Đạt Na mua của
Thái Tử Kỳ Đà, con của vua Ba Tư Nặc để cúng cho Đức Phật làm nơi thuyết pháp.
Ông Tu Đạt Na là người giàu lòng bố thí, thường cung cấp nuôi dưỡng những người
mẹ goá, con côi, nghèo khổ nên được mọi người tặng biệt hiệu là Cấp Cô Độc
trưởng giả. Ông Tu Đạt Na xây dựng tịnh xá này phải mua đất đổi bằng vàng, đem
vàng lót đến đâu thì đất được mua đến đó. Sự sùng kính Đức Phật trọng đại như
thế, động lòng Thái Tử, cuối cùng bằng lòng cùng chung với ông hiến cúng ngôi
vườn để xây dựng tịnh xá. Từ đó, một Tịnh xá đồ sộ được dựng lên ở trong vườn
này. Mấy thế kỷ sau khi Phật nhập diệt, khách hành hương đến chiêm bái ở đây
vẫn còn say ngắm những phong cảnh ngoạn mục nên thơ, nào hồ, ao, bồn hoa, cây
cảnh, nào giảng đường, trai đường, v.v…Nhưng đến khi Ngài Huyền Trang đến thì
Tịnh xá này hoang vắng, điêu tàn, tất cả cảnh tượng đồ sộ ngày xưa, chỉ còn trơ
lại hai trụ đ¸ của vua A
- Dục đã truyền dựng lên, mang ở trên đỉnh một bánh xe pháp và dưới mấy hàng chữ ghi dấu vết một nơi
thánh địa đã có cái vinh dự làm bối cảnh cho bao cuộc thuyết pháp của Đức Phật,
mười ba thế kỷ trước.
2. Chiêm bái vườn Lâm Tỳ Ni và thành Ca Tỳ La Vệ
Sau
khi rời khỏi vườn Cấp Cô Độc, Ngài Huyền Trang đi 800 dặm về phía Đông Bắc, đến
thành Ca Tỳ La Vệ, quê hương của Đức Phật (Nay thuộc nước Nepal). Thành này khi
Ngài Huyền Trang đến chiêm bái, là một nơi hoang địa. Thành quách, đền đài bị
tàn phá, may ra chỉ còn lại những móng gạch của kinh đô xưa. Cỏ cây hoang dại
loang cùng mặt đất, năm bảy cái chòi tranh che không kín gió những người dân
thưa thớt nghèo nàn. Vài ba chục Tỳ Kheo Tiểu Thừa cố gắng gìn giữ một cách bất
lực, thảm thương với sự hiện diện nghèo nàn của mình, cái huy hoàng rực rỡ ngày
xưa của nơi chôn nhau cắt rốn của vị siêu phàm đã làm vẻ vang cho nhân loại.
Mười ba thế kỷ qua rồi, tang thương đã mấy lần thay đổi, Ngài Huyền Trang còn
mong gì tìm thấy lại vang bóng của thời oanh liệt xưa? Nhưng cũng may, nhờ sự
sáng suốt nhìn xa của vua A - Dục, những trụ đá đã được dựng lên khắp nơi để
ghi lại cho hậu thế những biến chuyển đầy ý nghĩa trong đời sống của Đức Phật
khi còn sanh trưởng trên mảnh đất phì nhiêu này.
3. Chiêm bái rừng Sa La, nơi Đức Phật nhập diệt
Từ
giã thành Ca Tỳ La Vệ, Ngài Huyền Trang đi về phía Đông, qua 500 dặm rừng rậm,
đến xứ Câu Thi Na (Bây giờ là Kasi) là nơi Đức Phật đã nhập diệt. Ngài gợi nhớ
lại những lời di huấn sau cùng của Phật trong kinh di giáo : "…Này, các
người hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi! Hãy lấy pháp của ta làm đuốc, hãy nương
theo giáo pháp mà tự giải thoát. Đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào
khác…". Hoặc "…Này các Tỳ Kheo! Các ngươi đừng nghe theo dục vọng mà
quên lời ta dặn. Mọi vật ở đời không có gì quý giá. Thân thể rồi sẽ tan rã, chỉ
có Đạo ta là quý báu. Chỉ có chân lý của Đạo ta là bất di bất dịch. Hãy tinh
tấn lên để giải thoát!".
Chiêm
bái ở đây xong, Ngài Huyền Trang vượt nhiều rừng núi để đi đến thành Ba La Nại
viếng vườn Lộc Uyển.
4. Chiêm bái vườn Lộc Uyển
Lộc
Uyển là nơi mà Đức Phật đến thuyết pháp lần đầu tiên, sau khi thành đạo, cho 5
người bạn đồng tu của mình là nhóm ông Kiều Trần Như. Vườn này nằm ở ngoại ô
Thành Ba La Nại. Lúc ban đầu Ngài tu vơi 5 vị này, theo phương pháp khổ hạnh.
Được ít lâu nhận thấy phương pháp này không có hiệu quả, Đức Phật rời nhóm ông
Kiều Trần Như và phương pháp tu của họ. Ngài lại ăn uống bình thường và bị nhóm
ông Kiều Trần Như chế nhạo khinh rẻ. Sau một thời gian tu luyện một mình, Đức
Phật đã thành đạo chánh đẳng chánh giác. Ngài trở lại vườn Lộc Uyển để trình
bày sự giác ngộ của mình cho 5 người bạn đồng tu là nhóm ông Kiều Trần Như
nghe. Năm người người này trở thành năm đệ tử đầu tiên của Ngài. Từ đó Lộc Uyển
trở thành một đạo tràng mà Đức Phật Thích Ca thường lui tới thuyết pháp. Vua A
- Dục đã dựng lên ở đây một trụ đá chạm trổ rất đẹp để đánh dấu thuyết pháp đầu
tiên của Phật.
Khi
Ngài Huyền Trang đến đây, mọi thánh tích của Đức Phật khi còn tại thế đều được
giữ nguyên vẹn và kính cẩn. Vì ở đây đang có 1500 Tỳ kheo tu hành trong Tịnh xá
dựng lên ở vườn Lộc Uyển. Nhờ thế Ngài Huyền Trang được chiêm ngưỡng những cái
hồ mà Đức Phật đã dùng hoặc tắm hoặc để giặt rửa.
5. Chiêm bái Bồ Đề đạo tràng nơi Phật thành
đạo
Ngài
Huyền Trang đi lần về phía Nam, đến xứ Ma Kiệt đà, là nước phồn thịnh trong
thời Đức Phật tại thế, và là quê hương của vua A - Dục. Chính kinh đô nước này,
Vương Xá Thành, là nơi kiết tập kinh điển lần thứ 3.
Khi
Ngài Huyền Trang đến thành Vương xá thì thành này đã sụp đổ điêu tàn. Ngài chỉ
còn nhận thấy những vết tích của những cung điện huy hoàng ngày xưa. Và trong
số hàng trăm Tịnh xá mà vua A-Dục đã dựng lên ở đây, chỉ còn lại vài ba cái còn
đứng vững. Ngài Huyền Trang ở lại đây 7 ngày, rồi đi về phía Tây, luôn trong 6
ngày mới tới rừng Bồ Đề già là nơi có cây Bồ Đề mà đức Phật ngồi tham thiền ở
dưới gốc cho tới khi thành đạo. Chính ở gốc cây này, Đức Phật đã phát lời thệ
nguyện lịch sử :
"Nếu không thành đạo thì dù
thịt nát xương tan ta cũng không rời khỏi gốc Bồ Đề này"
Khi
Ngài Huyền Trang đến chiêm bái vùng này thì sông Ni Liên Thuyền, nơi Đức Phật
đã tắm rửa trước khi ngồi xuèng gốc cây
Bồ Đề, vẫn còn xanh, cây hai bên bờ vẫn còn tươi tốt, Ngài Huyền Trang đã tả :
thân cây màu trắng ngà, lá xanh láng mướt, không tàn rụng trong mùa hè cũng như
mùa đông. Chỉ đến ngày kỷ niệm Phật nhập Niết Bàn thì lá rụng, nhưng ngày hôm
sau lại đâm chồi nảy lộc sum mậu như trước. Cây Bồ Đề này được vua A-Dục săn
sóc chu đáo và vô cùng quý trọng. Vua cho xây thành bằng gạch chung quanh gốc
cây, có trổ nhiều cửa ra vào. Cửa chính hướng về phía Đông, nhìn ra sông Nì
Liên Thuyền, cửa phía Nam giáp giới một cái hồ trồng đầy sen, phía Tây giáp với
một dãy đồi cao, phía Bắc có một cái Tịnh xá rộng lớn, chính giữa có mét pháp toạ gọi là Kim Cang pháp toạ.
Sau
khi đứng chiêm ngưỡng cây Bồ Đề một hồi lâu, Ngài Huyền Trang sụp quỳ đất,
không ngớt than khóc "Kính lạy Đức Từ phụ, khi Ngài đã chứng quả Bồ Đề thì
con còn đang lặn hụp trong biển khổ si mê, cho đến ngày nay sau khi Ngài đã
nhập Niết Bàn trên 1000 năm rồi, con cũng vẫn chưa thoát khỏi cảnh sinh tử luân
hồi! Thật quả nghiệp báo của con quá nặng nề, và con vô cùng xấu hổ, thẹn thùng
cho duyên kiếp của con !" Trước sự cảm xúc thân phận mình, nước mắt chan
hoà. Trong lúc ấy có mấy ngàn tu sĩ vừa ra hạ, đến vây quanh Ngài và đều mủi
lòng thương cảm trước thái độ thành khẩn của Ngài. Ngài Huyền Trang ở đây 6
ngày, rồi đến lưu học tại chùa Na Lan Đà.
Thế
là Ngài đã lần lượt chiêm bái xong các thánh địa chính như ý Ngài mong ước. Về
phương diện tình cảm của một đệ tử thuần thành đối với đức Từ phụ, như thế là
Ngài đã được như nguyện. Bây giờ Ngài còn phải làm thế nào để được thoả mãn lý
trí trong sự khao khát tìm cầu học hỏi và sưu tầm kinh điển.
Phần X. Ở TU HỌC TẠI CHÙA NA-LAN-ĐÀ
Chùa
Na Lan Đà ở về phía Đông Bắc Bồ Đề Già, trong nước Ma Kiệt Đà (Trung Ấn Độ)
dịch theo tiếng Trung Hoa. Chùa này được dựng từ thế kỷ thứ nhất (Sau công
nguyên) và là một ngôi chùa lớn nhất và đẹp nhất ở Ấn Độ. Chùa gồm trên 10 Tịnh
xá, có phòng họp, phòng Tịnh niệm, Tịnh thất cao 4 tầng lầu, có vườn hoa, hồ
sen, thành quách như cả một đô thị. Ngài Huyền Trang đã ghi trong tập bút ký
của Ngài "Tịnh xá ở Ấn Độ kể có hàng ngàn, nhưng không có cái nào sánh kịp
chùa Na Lan Đà, cả về phương diện lộng lẫy, giàu có và đồ sộ. Vào đây người ta
có cảm tưởng như đi lạc vào một rừng lâu đài, điện các, cái này chồng lên cái
kia, với những pho tượng và những bức tường chạm trổ công phu. Na Lan Đà thật
xứng đáng là một học phủ tối cao, một trung tâm văn hoá của Ấn Độ thời bấy giờ.
Các kinh điển Đại Thừa, Tiểu Thừa, tụng tán Phệ Đà, các sách y dược Thiên Văn,
địa kỳ, kỷ nghệ đều tập trung ở đó, tóm lại là đủ cả các thứ sách vở dạy Ngũ
Minh". Vị Cao tăng chủ trì tại chùa này là Ngài Giới Hiển, thường được gọi
là Chánh pháp Tạng. Khi Ngài Huyền Trang đến đây thì Ngài Giới Hiển đã già trên
trăm tuổi rồi, là vị học giả thông thái nhất Ấn Độ thời bấy giờ.
Số
tăng sĩ ở trong chùa kể cả chủ lẫn khách, không bao giờ dưới 10 ngàn người. Các
vị tăng sĩ này đều nghiêm trì giới luật và siêng năng tu học. Hằng ngày vào
khoảng 100 vị giảng sư túc trực giảng dạy trên pháp toạ. Cho nên từ 700 năm
nay, từ khi chùa mới thành lập cho đến khi Ngài Huyền Trang đến tu học, chùa
này luôn luôn được sự trọng nể của các hàng vua chúa và dân chúng khắp nơi.
Trong số 10.000 tu sĩ ở đây, có 1000 vị thông giảng được 20 bộ kinh luận, 500
vị thông giảng được 30 bộ, 10 vị thông giảng được 50 bộ và chỉ có Ngài Giới
Hiển là thông hiểu hết toàn thể các bộ. Để cung cấp mọi chi phí trong chùa và
tứ sự cúng dường cho toàn thể tăng chúng, nhà vua đã trích số tiền thu thuế của
100 thành phố, và mỗi ngày 200 gia đình đem cơm nước, bơ, sữa đến cúng dường. Nhờ
thế chư tăng ở đây khỏi phải mất thời giờ đi khất thực và có đủ phương tiện và
nhiều thời gian để tu học.
Khi
Ngài Huyền Trang sắp đến, chùa phái 200 vị tăng sĩ và 1000 tín đồ đi nghênh đón
với cờ quạt, lọng tàng, hương hoa. Khi Ngài vào đến chùa, toàn thể tăng đồ và
cư sĩ tụ lại, vây quanh Ngài hoan hô. Họ đặt trên bệ cao một cái ghế, mời Ngài
Huyền Trang ngồi. Sau khi khách chủ đều ngồi, vị phó giám đốc của chùa đứng
dậy, cất tiếng mời Ngài lưu lại chùa và cùng họ chung sống trong giáo lý lục
hoà.
Ngài
được dẫn vào ra mắt pháp sư Giới Hiển, khi thấy pháp sư, Ngài Huyền Trang theo
lễ phép Ấn Độ quỳ xuống và bò vào gần đến chân Ngài Giới Hiển, lạy Ngài làm lễ
ra mắt. Sau khi hỏi han và không tiếc lời khen ngợi, Ngài Giới Hiển đem ghế và
mời Ngài Huyền Trang ngồi. Ngài Huyền Trang tỏ ý định muốn được thọ giáo pháp
sư Giới Hiển, khi được biết ý định của Huyền Trang, pháp sư Giới Hiển bảo một
đệ tử thân tín kể lại cho Ngài Huyền Trang nghe điềm mộng mà pháp sư đã thấy
trước đây ít lâu, vì mang bệnh nặng, Ngài Giới Hiển muốn nhập diệt, nhưng một
hôm Ngài nằm mộng thấy ba vị Bồ Tát là Ngài Văn Thù, Ngài Quán Thế Âm, Ngài Di
Lặc đến dạy Ngài phải ở lại truyền đạo và đợi một vị tăng sĩ ở Trung Hoa qua để
truyền giáo.
Ngài
Huyền Trang nghe chuyện ấy, hết sức mừng rỡ, một lần nữa van xin Ngài Giới Hiển
hãy rủ lòng từ bi nhận cho mình được làm đệ tử. Ngài hứa sẽ luôn luôn là một đệ
tử thuần thành và ngoan ngoãn vâng theo lời dạy của pháp sư Giới Hiển.
Ngài
Giới Hiển, vì tuổi quá già, lâu nay không giảng kinh nữa, nhưng lần này vì Ngài
Huyền Trang sẽ đặc cách giảng về Du Già Sư Địa luận. Ngài Huyền Trang thật may
mắn gặp được vị sư xứng đáng như thế. Ngài Giới Hiển là học trò Ngài Pharmapala
(Hộ pháp), Ngài Pharmapala là học trò của luận chủ Dignaga, Ngài Dignaga là đệ
tử của hai Ngài Vô Trước và Ngài Thế Thân Bồ Tát, hai vị đã sáng lập ra tông
Duy Thức. Như thế là ngài Huyền Trang đã trực tiếp hấp thụ được giáo lý chính
tông của Duy Thức, thật là một sự may mắn hiếm hoi.
Ngài
Giới Hiển giảng về Du Già Sư Địa luận trong 15 tháng. Mỗi khi Ngài giảng, tín
đồ xa gần nô nức tới nghe có đến 3, 4 vạn người. Riêng Ngài Huyền Trang, đêm
ngày không chút nào chểnh mảng, Ngài vừa nghe giảng, vừa tìm tòi nghiên cứu
thêm các kinh điển khác để được thông hiểu hết ý nghĩa sâu xa. Vì thế, thanh
danh bác học của Ngài được lan khắp 5 xứ Ấn Độ và được từ vua chúa cho đến dân
chúng kính trọng quý mến.
Ban
đầu Ngài ở trong một toà nhà hai tầng của một tịnh xá do vua nước Ma Kiệt Đà
lập lên. Sau Ngài lại dời sang ở kế cạnh ngôi nhà mà trước kia ngài Luận Chủ Hộ
Pháp đã ở. Mỗi tháng vua nước Ma Kiệt Đà cúng dường cho Ngài ba thùng dầu và
các thứ bơ, sữa, thức ăn đủ dùng trong một tháng.Vua lại truyền cho một vị tăng
sĩ và một vị Bà La Môn cứ mỗi ngày hướng dẫn Ngài đi du ngoạn đây đó bằng xe,
ngựa hay cáng. Trong 5 năm ở tu học tại chùa Na Lan Đà, Ngài Huyền Trang đã
nghe pháp sư Giới Hiển giảng: Ba lần luận Du Già Sư Địa, một lần Thuận chánh lý
luận, một lần Hiển dương luận, một lần Đối pháp luận, hai lần Nhân minh luận,
hai lần Thanh minh luận, hai lần Tập lượng luận, ba lần Trung luận, ba lần bách
luận. Ngoài ra, những luận khác như Câu X¸, Bà Sa,
Lục Túc v.v…, đã học ở các nơi thì chỉ hỏi lại những phần chưa hiểu thôi. Sau 5
năm thụ giáo với Ngài Giới Hiển và tiếp thu một vốn học hỏi sâu rộng, Ngài
Huyền Trang lại từ giả Na Lan Đà để đi du học ở Đông bộ, Nam bộ và Tây bộ Ấn
Độ.
Phần XI. CHU DU ĐÔNG, NAM, TÂY, BẮC ẤN ĐỘ
Rời
Na Lan Đà Ngài Huyền Trang vượt sông Hằng, đi về phía Đông, ra vịnh Băng Gan
đến cửa bể Tâm Ra Li Ti. Ngài định đến đây rồi đi thuyền vượt biển ra đảo Tích
Lan, ở tận cùng bán đảo Ấn Độ về phía Nam. Tích Lan là thủ phủ trung tâm Phật
Giáo Tiểu Thừa. Chính đây là nơi, lần đầu tiên công chúa vua A Dục đã chiết
cành cây Bồ Đề sang truyền ®ạo Phật.
Cũng chính ở đây là nơi có vinh hạnh độc nhất, được giữ di tích quý báu của đức
phật là cái răng của Ngài.
Ngài
Huyền Trang, đêm đêm ở trên bờ biển Ấn Độ, thường mơ tưởng đến cái hòn đảo xa
xăm kia mà hào quang của đức Phật chiếu sáng từ "Chùa răng Phật" ra
xa mấy mươi dặm. Ở chung quanh, như một ngôi sao lấp lánh giữa bầu trời quang
đãng. Nhưng khi Ngài đến cửa biển Tâm Ra Li Ti, Ngài hỏi đường thuỷ đi sang đảo
Tích Lan, thì người ta khuyên không nên đi bằng đường hải đạo xa như thế, sợ
gặp nhiều nguy hiểm. Ngài nghe theo lời khuyên ấy và đi theo đường bộ ven biển
về phía Nam, Ngài trải qua các nước Đông và Nam Ấn Độ, như các nước Cung Ngư
Đàm, Yết Lăng Già (Kalinga), Ma Ha Kiền Tát La (Kosala), Án đạp la (Andara), Đà
Na Yết Kiệt Ca (Dravida) v.v…
Đất
nước nào, Ngài nghe có vị cao tăng, đại đức có thể chØ giáo cho mình về các môn đạo học, triết học, thiên
văn, địa lý v.v… thì Ngài liền xin được thụ giáo. Ngoài ra, Ngài còn quan sát
một cách chính xác địa thế sanh hoạt, tánh tình, đạo đức của dân tộc các nước
ấy. Vì thế cho nên bộ Tây Du Ký của Ngài là một tài liệu quý báu mà chính ngày
nay các nhà bác học vẫn cÇn đến để tìm
tài liệu lịch sử về các nước Ấn Độ trong thời đại mà Ngài đi qua đấy.
Khi
Ngài đến cực Nam của bán đảo Ấn Độ, đối diện với đảo Tích Lan, định vượt biển
qua đấy thì ngưòi ta cho ngài biết, đảo Tích Lan sau cuộc đảo chánh trong nội
phủ nạn đói và loạn lạc đang hoành hành. Tích Lan không còn là một xứ thanh
tịnh êm đềm như Ngài tưởng tượng, mà một nơi các tu sĩ đang lánh xa để tìm yên
tĩnh ở nơi khác. Chính các vị tu sĩ ở đây đang chạy trốn sang đất Ấn Độ đã
khuyên Ngài không nên đặt chân lên đảo ấy. Ngài Huyền Trang bèn huỷ bỏ dự định
sang viếng Tích Lan và tiếp tục cuộc hành trình bằng đường bộ dọc theo bờ biển
phía Tây Ấn Độ, để trở về chùa Na Lan Đà.
Ngài
Huyền Trang đi theo con dường vòng này xa hơn, nguy hiểm hơn và khó nhọc hơn.
Mục đích của Ngài không phải là đi cho mau đến đích mà là đi để biết và học
hỏi. Đi là chính đến là phụ, thái độ của người đi tìm học, tìm chân lý là như
thế. Trên đoạn đường đi và trở về lại chùa Na Lan Đà, pháp sư Huyền Trang đã đi
qua các nước thuộc miền Nam Ấn Độ, Trung Ấn Độ và cực Tây Ấn Độ và trong các
nước các vùng này, Ngài thu thập ghi chép những nét tập quán phong phú của từng
nước từng vùng, văn hoá, chính trị, tập quán v.v…
Sau
khi đi đã đến nước La Yết Ma cực Tây Ấn Độ, giáp ranh giới nước Ba Tư, Ngài
Huyền Trang mới trở về Trung Ấn Độ và sau khi trải qua nhiều nước, Ngài trở về
nước Ma Kiệt Đà và vào tu học lần thứ hai tại chùa Na Lan Đà. Kể từ ngày Ngài
Huyền Trang rời chùa Na Lan Đà cho đến khi trở lại, ròng rã 6 năm. Trong 6 năm
ấy, Ngài đi khắp Đông, Nam, Tây, Bắc, Trung, 5 xứ Ấn Độ, gồm trên 100 nước. Nơi
nào xét cần Ngài ở lại để thụ giáo với những bậc minh sư từ một vài tháng cho
đến một vài năm ở đấy.
Điều
đáng quý trọng trong thái độ học hỏi của Ngài Huyền Trang và đáng để cho chúng
ta noi theo là không phải Ngài chỉ sưu tầm, nghiên cứu giáo lý Đại Thừa hay
Tiểu Thừa mà thôi, Ngài còn tìm hiểu học hỏi những đạo giáo, môn phái triết học
khác mà có khi Ngài không thích. Nhờ thế tầm hiểu biết của Ngài thật bao la
rộng lớn và mỗi khi bàn đến vấn đề gì, Ngài cũng tỏ ra thấu triệt, quán xuyến,
không ai qua mặt được và bao giờ cũng nắm phần thắng lợi. Chúng ta sẽ thấy
những bằng chứng cụ thể về điểm này trong các cuộc tranh luận giữa Ngài và các
đạo giáo khác.
Phần XII. TRANH LUẬN VỚI CÁC PHÁI TIỂU THỪA VÀ NGOẠI ĐẠO
Sau
6 năm chu du và học hỏi khắp 5 xứ ở Ấn Độ, Ngài Huyền Trang trở về Na Lan Đà. Ở
đây Ngài được toàn thể tăng chúng tiếp đón rất nồng hậu và Ngài Giới Hiển vô
cùng trọng nể. Vị trưởng lão này giao cho Ngài chủ trì các khoá giảng, ngoài ra
còn sai Ngài giảng về Nhiếp Đại Thừa LuËn, Duy Thức
quyết trạch luận cho tăng chúng cả chùa nghe.
Trong
số các đệ tử của pháp sư Giới Hiển có vị Sư Tử Quang thấy Ngài được trọng đãi
và làm chủ giảng, có ý không phục. Ông bèn lấy lý Trung luận, Bách luận để phá
nghĩa lý Du già, Ngài Huyền Trang vốn thông suốt cả Trung luận, Bách luận và Du
già nên hội thông cả ba tông, do vậy mà cho là không trái nhau và làm ra 3.000
bài tụng "Hội tông luận", giảng rõ đại nghĩa trình lên Giới Hiển và
đại chúng, ai ai cũng đều khâm phục. Sư Tử Quang tự biết sức học của mình không
thể nào theo kịp Ngài Huyền Trang, lấy làm xấu hổ bỏ chùa Na Lan Đà ra đi, một
năm sau mới trở lại.
Cũng
trong thời gian ấy, có người Thuận Thế ngoại đạo viết ra hơn 40 điều lý luận
treo ở chùa Na Lan Đà và ngạo mạn tuyên bố rằng nếu ai có thể phá được một điều
nào thì anh ta cam chịu cắt đầu đền tội.
Trong
chùa không ai dám bác bỏ. Ngài Huyền Trang liền xin Ngài Giới Hiển và các vị
cao tăng làm chứng cho cuộc biện luận giữa Ngài và người ngoại đạo ấy. Cuối
cùng người ấy thất lý đành phải cúi đầu chịu tội và yêu cầu thi hành lời thách
đố của mình. Ngài Huyền Trang cười và bảo " Đã là một kẻ tu hành thì không
bao giờ giết người. Anh định để vong hồn anh theo dõi bên mình ta hay
sao?".
Trong
các nước ở Ấn Độ thời bấy giờ có nước Ma Kiệt Đà là một nước lớn ở Trung Ấn Độ,
ở dưới quyền thống trị của vua Giới Nhật. Vị vua này rất sùng mộ Đại Thừa Phật
Giáo, và là một vị vua vừa có tài trị dân, vừa là một thi sĩ. Uy tín và ảnh
hưởng chánh trị của ông lan xa trong 5 xứ Ấn Độ. Phật Giáo ở Ấn độ thời bấy giờ
mất dần thanh thế, nhưng ở nước Ma Kiệt Đà, nhờ ảnh hưởng và uy tín của vua
Giới Nhật vẫn còn thịnh hành.
Vua
Giới Nhật đi qua nước Ô Đồ nghe tin có một vị tu sĩ theo Tiểu Thừa có danh
tiếng tên là B¸t Nhã Cúc
Đa làm ra 700 bài tụng "Phá Đại Thừa luận", chê phái Đại Thừa là
"Không hoa ngoại đạo". Vua liền viết thư cho Ngài Giới Hiển xin cho
người đến Ô Đồ biện luận phải trái. Ngài Giới Hiển nhận thư, thương nghị cùng
các vị cao tăng đại đức trong chùa Na Lan Đà, và cuối cùng quyết định cử Ngài
Huyền Trang với ba người nữa là sư Tử Quang, Hải Tuệ, Trí Quang đến đó biện
luận. Ba người này lo sợ không dám lãnh sứ mệnh ấy. Trái lại, Ngài Huyền Trang
không chút sợ hãi, tìm được nguyên văn 700 bài tụng "Phá Đại Thừa
luận" đêm ngày nghiên cứu, có chỗ nào nghi nan thì cùng người Thuận Thế
ngoại đạo mà Ngài đã thuyết phục trước kia thảo luận, rồi viết thành 1.600 bài
tụng "Phá ác kiến luận". Những bài này rất được Ngài Giới Hiển và
tăng chúng trong chùa thán phục.
Ngài
Huyền Trang sắp đi đến nước Ô Đồ tranh luận thì vua Cưu Ma La ở cực Đông Ấn Độ
vì hâm mộ sự uyên bác của Ngài Huyền Trang nên sai sứ đến thỉnh Ngài đến nước
ấy giảng đạo. Điều đáng chú ý là vua Cưu Ma La mặc dù theo Bà La Môn giáo vẫn
không ngại nghe giảng về giáo lý Phật Đà. Do thái độ rộng rãi không cố chấp và
luôn luôn tìm kiếm học hỏi ấy nên của Cưu Ma La được kẻ tài đức ở các nơi hâm
mộ, kính yêu.
Khi
vua Giới Nhật thân chinh xong trở về nước mong được hội kiến với Ngài Huyền
Trang để sắp đặt cuộc đấu lý giữa Ngài và các phái Tiểu Thừa và ngoại đạo hầu
làm sáng tỏ giáo nghĩa Đại Thừa nhưng Ngài Huyền Trang còn ở nước Cưu Ma La
chưa trở về. Vua một mặt tức tốc phái người đi trước đến nước ấy triệu Ngài về,
một mặt thân hành đi sau đón Ngài.
Vua Cưu Ma La vốn là một chư hầu của vua Giới
Nhật nhận được thư của vua Giới Nhật, liền tự mình hộ tống Ngài Huyền Trang trở
về. Đoàn hộ tống ngược dòng sông Hằng gồm có 20 ngàn thớt voi và 30 chiến thuyền. Khi đến địa điểm mà hai
vị vua đã hẹn gặp thì trời đã tối. Vua Giới Nhật nóng lòng muốn gặp Ngài Huyền
Trang, không đợi đến sáng hôm sau, mà truyền quân tức tốc cùng mình đến đón
Ngài. Đêm ấy giữa dòng sông sáng rực lên mấy ngàn ngọn đuốc và vang lên tiếng
trống lớn. Cứ mỗi bước là 100 cái trống đều đánh lên một lần, đó là nghi lễ đặc
biệt chỉ dành cho vị đại vương Giới Nhật mà thôi, các vị vua Ấn Độ khác không
được theo nghi lễ ấy. Vua Cưu Ma La nghe báo vua Giới Nhật sắp đến cũng lật đật
truyền quân đốt đuốc ra nghinh đón.
Khi gặp Ngài Huyền Trang, vua Giới Nhật liền
quỳ xuống hôn chân Ngài, rồi rãi hoa trước mặt Ngài, và nhìn Ngài với vẻ vô
cùng ngưỡng mộ. Sau khi không ngớt lời tán thán Ngài Huyền Trang, vua hỏi có vẻ
trách móc tại sao Ngài không đến hội kiến sớm hơn (Từ khi Ngài Huyền Trang đến
Ấn Độ, lần này là lần đầu tiên Ngài gặp vua Giới Nhật. Vua thường đi thân
chinh, ít khi có mặt ở kinh đô Khúc Nữ).
Tuy
mới gặp nhau lần đầu, 2 vị danh nhân này đã quý chuộng nhau và có cảm tình sâu
đậm đối với nhau. Trước khi hỏi về đạo lý, vua Giới Nhật hỏi về tình hình nước
Trung Hoa và được Ngài Huyền Trang trả lời một cách thông suốt.
Sau khi hỏi tình hình của đất nước Trung Hoa
xong, vua Giới Nhật lại hỏi về công cuộc nghiên cứu đạo lý của Ngài Huyền
Trang, nhất là những bài tụng mà Ngài đã làm để hiển dương giáo lý Đại Thừa và
bác bỏ những lý lẽ xuyên tạc của ngoại đạo. Sau khi được biết Ngài Huyền Trang
đã hoàn tất công tác mà Ngài Giới Hiển đã giao phó, vua Giới Nhật mới hội đàm
với vua Cưu Na La quyết định thông tri cho các nước, mở một đại hội ở thành
Khúc Nữ, kinh đô nước Ma Kiệt Đà để Ngài Huyền Trang tuyên dương giáo lý Đại
Thừa và tranh luận với các phái Tiểu Thừa và ngoại đạo.
Đại
hội mở ra vào những ngày đầu xuân năm 643 tại Khúc Nữ, trong một khung cảnh rất
đồ sộ. Có thể nói đây là một đại thịnh hội văn hoá thứ nhất trong lịch sử Ấn
Độ. Tất cả những nhân sĩ học giả uyên thâm của các giáo phái, các học thuyết ở
Ấn Độ thời bấy giờ đều đến dự. Người ta đếm được 18 vị quốc vương của 18 nước,
3.000 tăng lữ thuộc Đại Thừa và Tiểu Thừa, trên 2000 người Bà La Môn và Ni Càn
ngoại đạo, trên 1000 tăng lữ ở chùa Na Lan Đà đến tham dự hội nghị. Tất cả
những người này, mặc dù khác tín ngưỡng, khác học thuyết, nhưng đều là những
học giả cao siêu, có uy tín, có ảnh hưởng trong 5 xứ Ấn Độ. Người thì đi thuyền
theo dòng sông Hằng mà đến, người thì đi voi, đi cáng dọc theo bờ sông. Mỗi
người đều kéo theo nhiều đám tuỳ tùng, cờ xí rợp trời, trống kèn dậy đất. Quang
cảnh thật là tưng bừng, rực rỡ và vĩ đại chưa từng thấy.Vua Giới Nhật đã truyền
dựng hai dãy nhà rộng mênh mông để chứa quan khách và tăng lữ.
Ngày
đầu khai mạc Đại hội, có cuộc rước Phật. Tượng Phật được cung nghinh trên một
thớt voi lớn, trang hoàng lộng lẫy. Vua Giới Nhật, vấn y phục như thiên thần
Indra, nắm quạt trắng đi theo hầu ở phía tay phải tượng Phật, vua Cưu Ma La vËn y phục Phạm Thiên mang lọng đi hầu ở phía trái.
Trước và sau tượng Phật có trên 100 thớt voi mang những nhạc sĩ và hoa quý để
tung lên sau tượng Phật. Ngài Huyền Trang và vua chúa cùng đình thần đến cỡi
mỗi người mỗi thớt voi đi sau vua Giới Nhật và Cưu Ma La.
Đám rước khởi đầu đi từ doanh trại vua Giới
Nhật vào lúc bình minh. Khi đám rước đến cửa hội trường mọi người đều xuống voi
để rước tượng Phật vào điện thờ. Vua Giới Nhật cứ mỗi bước đi lại trải ngọc ngà
châu báu xuống đất để tỏ lòng sùng kính Tam Bảo. Vua tự tay làm lễ tắm tượng
Phật với nước hoa, rồi tự mình thỉnh tượng Phật lên tháp cao. Sau khi lễ Phật
xong, vua Giới Nhật truyền lệnh cho 18 quốc vương thỉnh vào đạo trướng. 1000 vị
cao tăng đại đức, 500 vị Bà La Môn và ngoại đạo xuất sắc, 200 vị văn võ triều
thần của 18 nước. Những vị tu sĩ cư sĩ không vào được đạo tràng thì sắp hàng
đứng ngoài cửa. Sau khi mở tiệc thiết đãi và cúng dường tứ sự các vị tu sĩ, hội
nghị chính thức bắt đầu. Vua Giới Nhật thỉnh Ngài Huyền Trang lên pháp toạ làm
luận chủ, xưng dương Đại Thừa, chế tạo luân lý và nêu vấn đề cho hội nghị thảo
luận. Ngài Huyền Trang đưa ra rất nhiều lý luận của phái Đại Thừa và lấy bài
"Chân duy thức luận" hữu danh của Ngài làm nội dung cho cuộc tranh
luận. Ngài sai sa môn Minh Hiền đọc giữa đại chúng và dán một bản ở ngoài cửa
để cho những người không thể vào được xem.
Sau
khi treo bài luận ấy, từ sáng tới chiều không một người nào dám đứng ra tranh
luận. Những ngày sau, Ngày Huyền Trang vẫn biện luận một cách thông suốt và
không gặp một đối thủ nào ngang sức. Đến ngày thứ 5, phái đối lập thấy lý luận
của mình bị đánh đổ tất cả, sanh lòng oán hận âm mưu tìm cách ám hại Ngài.
Vua Giới Nhật khám phá ra được âm mưu ấy liền
ra một bản tuyên cáo, lời lẽ gắt gao "Trong đại chúng, nếu kẻ nào âm mưu
làm tổn thương đạo thể pháp sư Huyền Trang sẽ bị chặt đầu, kẻ nào dèm siển, mạt
sát pháp sư sẽ bị cắt lưỡi. Trái lại, kẻ nào tin tưởng vào sự công minh chính
trực của trẫm mà bàn cãi một cách đường đường chính chính thì sẽ được hoàn toàn
tự do phát biểu ý kiến".
Trong 18 ngày liên tiếp, Ngài Huyền Trang
giảng một cách minh bạch, nghÞ luận xác
đáng, đưa ra những nghĩa lý tinh vi, làm cho cả hội trường không ai cãi chối
vào đâu được. Sau khi hội nghị bế mạc, hàng ngàn người đã bỏ đạo lý cũ của mình
để xin quy y theo Đại Thừa Phật Giáo.
Quốc
vương Giới Nhật vô cùng hoan hỷ, truyền đem cúng dường Ngài Huyền Trang 10 ngàn
đồng tiền vàng, 30 ngàn đồng tiền bạc, 100 bộ y bằng nỷ. 18 vị quốc vương đều
tặng rất nhiều báu vật, nhưng Ngài không nhận một mảy may nào. Theo cổ lệ Ấn
Độ, những người đắc thắng trong các cuộc biện luận được cởi voi đi du hành khắp
nơi để được sự hoan hô của quần chúng. Bởi thế vua Giới Nhật truyền trang hoàng
một con voi lớn, có 18 vị quốc vương và các vị đình thần, dân chúng đi theo hộ
vệ, rồi mời Ngài Huyền Trang lên voi. Ngài từ chối 2, 3 lần nhưng mọi người đều
nài ép bảo rằng đó là tục lệ nên Ngài phải làm theo. Ngài trèo lên mình voi, vua
Giới Nhật n©ng chéo y của
Ngài, long trọng tuyên bố với quần chúng
-
Đây là vị pháp sư Trung Quốc đã lập luận về giáo lý Đại Thừa, phá tan mọi tư
kiến, luôn trong 18 ngày không ai tranh luận nổi. Vậy hết thảy chúng ta phải
nhận biết sự đắc thắng ấy.
Toàn
thể hội trường hoan hô nhảy múa, dâng hương, tung hoa và đi theo hộ tống Ngài.
Từ đây tiếng tăm của Ngài vang dội cả 5 xứ Ấn Độ.
Bên
lề cuộc thắng lợi vẻ vang mà Ngài Huyền Trang đã thâu hoạch trong cuộc tranh
luận với các giáo phái ngoại đạo ấy, chúng ta cũng nên biết qua những khó khăn
trở ngại mà vua Giới Nhật đã gặp phải trong khi tổ chức Đại Hội có một không
hai trong lịch sử văn hoá Ấn Độ.
Ở
Ấn Độ hồi ấy ®ạo Phật đã
dần dần mất thanh thế, và Bà La Môn giáo đang trong giai đoạn khôi phục thanh thế
đã có từ trước khi đức Phật ra đời. Ngay ở nước Ma Kiệt Đà là một nơi ®ạo Phật đang còn nhiều uy tín mà trong triều đình của
vua Giới Nhật, phần lớn các quan đại thần đều là tín đồ Ba La Môn giáo.
Bà
La Môn giáo đang lớn mạnh, bởi thế những người lãnh đạo tôn giáo này không muốn
vua Giới Nhật tổ chức đại hội nói trên mà kết quả là nâng cao uy tín của ®ạo Phật và Ngài Huyền Trang, một pháp sư người Trung
Quốc và làm lu mờ Bà La Môn giáo và giới lãnh đạo tôn giáo ấy, trước mắt quần
chúng Ấn Độ, họ tìm cách phá hoại đại hội và âm mưu ám sát cả vua Giới Nhật
nữa.
Trong
ngày cuối cùng của Đại Hội, lửa bỗng nhiên bốc cháy ở cái tháp mới cất để thờ
Phật trong hội trường, và gian nhà 2 tầng cũng làm mồi cho lửa. Nghe tin chẳng
lành ấy, vua Giới Nhật đã đau đớn và thốt lên :
"Ta
đã đem hết của cải ra bố thí, và theo gương các tiên đế, ta đã xây dựng cái
tháp ấy và làm các việc ích lợi khác. Nhưng vì đức ta quá mỏng nên ta không
được sự ủng hộ của thần dân. Trước những tai hoạ và những điềm chẳng lành ấy,
ta có cần kéo dài thêm đời sống nữa chăng?"
Nhưng
cũng may mắn, có lẽ nhờ Phật gia hộ, đám lửa được dập tắt và các sự thiệt hại
không lấy gì làm quan trọng. Nhưng bọn chủ mưu bà La Môn không nản lòng. Còn
tiếp tục tiến xa hơn nữa trong những âm mưu đen tối. Sau khi lửa tắt, vua Giới
Nhật cùng đình thần leo lên ngọn tháp để quan sát tình hình. Vua lên đỉnh tháp
quan sát xong rồi theo tầng cấp bước xuống. Thình lình một kẻ lạ mặt tay cầm
đoản đao phóng đến phía vua. Vua Giới Nhật nhảy lui mấy bước rồi chạy trở lên. Khi
kẻ lạ mặt chạy theo gần đến, vua cúi xuống ôm lấy nó và giao cho các quan hộ
vệ. Khi kẻ lạ mặt bị bắt, vua Giới Nhật không đổi sắc mặt, bình tĩnh hỏi lý do
vì sao nó muốn giết Ngài. Người này khai là những người Bà La Môn tức giận vì
vua đã ưu đãi tăng sĩ Phật Giáo, nên họ dự tính sau khi đốt cháy cái tháp, sẽ
thừa dịp lộn xộn để ám sát vua. Nhưng đám lửa đã bị dập tắt ngay, họ không thi
hành được như dự định nên thuê người ấy nắm dao đâm vua. Sau vụ mưu sát ấy, 500
người Bà La Môn bị đày ra khỏi biên giới Ấn Độ.
Phần XIII. ĐẠI THÍ TRƯỜNG "VÔ GIÀ"
Sau
ngày bế mạc đại hội ở Khúc Nữ, Ngài Huyền Trang muốn từ giã Ấn Độ để về nước.
Nhưng vua Giới Nhật muốn Ngài ở lại để dự Đại hội "Vô Già" là một đại
hội bố thí rất lớn, tổ chức tại Bát la ra gia. Vua nói:
"
Đệ tử ở ngôi vua đã hơn 30 năm nay, tích chứa của báu, cứ 5 năm một lần mở ra
hội "Vô Già" đại thí trong 75 ngày. Nay đệ tử muốn mở hội lần thứ 6,
vậy xin pháp sư hãy ở lại để cùng tuỳ hỷ cho vui".
Nể
lời mời của vua Giới Nhật, Ngài Huyền Trang ở lại, chứng kiến một đại hội bố
thí vô cùng đặc biệt, chỉ riêng ở Ấn Độ mới có. Đại hội mở tại nước Bát la ra
gia, phía Bắc giáp sông Hằng, phía Nam giáp sông Mậu na, lập trên một cái đàng
rộng lớn, mỗi bề độ 15 dặm. Từ ngàn xưa, mỗi lần muốn bố thí lớn, các vua chúa
đều đến đây để mở hội. Tục truyền rằng một đồng bạc bố thí ở đây có giá trị
phước đức bằng 100 ngàn đồng bạc bố thí ở chỗ khác. Chung quanh đàng có hàng
rào bằng tre, ở giữa có nhiều dãy nhà rộng lớn lợp tranh để chứa những vật bố
thí có giá trị: vàng, bạc, châu báu, san hô, xa cừ mã não….Ngoài ra có mấy trăm
kho chứa vải lụa….Trước mỗi kho, có một gian nhà có thể chứa được 1000 người.
Ngoài hàng rào một dãy trại lớn được dựng lên để làm trai đường.
Khi vua Giới Nhật và Ngài Huyền Trang cùng với
18 vị quốc vương đến đại thí trường này thì có 500 nghìn người đã đợi sẵn ở đó
để được bố thí.
Sau
khi các vua chúa đã hạ trại xong quân lính đi theo hộ giá chia làm hai đạo, một
đạo đi theo đường thuỷ, trên những chiếc thuyền lộng lẫy, một đạo đi theo đường
bộ trên những thớt voi hùng dũng, tề tựu ở xung quanh thí trường, còn các vua
chúa thì theo thứ tự lớn nhỏ mà đứng ở những địa điểm đã định trước.
Ngày
đầu người ta cung thỉnh một tượng Phật lên điện thờ và bố thí những thứ nhất
bảo và y phục vô cùng quý giá. Một bữa tiệc linh đình được thiết đãi, có hoa và
nhạc.
Ngày
thứ hai người ta cung thỉnh một tượng Phật thần và cũng bố thí các thứ nhật bảo
và y phục quý báu nhưng chỉ bằng nữa giá trị của những thứ bố thí ngày đầu.
Ngày
thứ ba người ta cung thỉnh một tượng Phật Xi-va (Civa) và cũng bố thí các thứ
quý giá như ngày thứ hai.
Ngày
thứ tư, người ta cúng dường cho 10.000 tăng ni. Những người này ngồi sắp thành
100 hàng dài và mỗi người nhận lãnh 100 đồng tiền vàng, một bộ y bằng vải, các
thức ăn và hương hoa.
Ngày
thứ năm, làm lễ cúng dường cho tu sĩ Bà La Môn và liên tiếp trong 20 ngày như
thế.
Ngày
thứ sáu, làm lễ cúng dường cho ngoại đạo, và liên tiếp làm trong 10 ngày như
thế.
Ngày
thứ bảy, làm lễ cúng dường cho các người thuộc đạo Ni Càn ở xa đến và trong 10 ngày
như thế.
Sau
cùng là bố thí cho các người nghèo khổ, mồ côi, vô gia đình. Lần bố thí này kéo
dài trong suốt một tháng. Sau thời hạn này tất cả các kho tàng của nhà vua tích
trữ trong 5 năm đều hết sạch chỉ còn voi ngựa, khí giới là những thứ cần dùng để
bảo vệ an ninh, trật tự không thể đem cho được.
Đến
đây Ngài Huyền Trang được chứng kiến một cử chỉ vô cùng ngoạn mục của lòng từ
bi mà vua Giới Nhật đã biểu lộ trong những ngày cuối cùng của Đại thí trường Vô
già. Sau khi nhận thấy quanh mình không có gì để cho nữa, vua Giới Nhật liền
cởi hết cả áo mão, vòng vàng, chuỗi ngọc, tất cả những vật quý mang trong mình
ra bố thí. Rồi mượn một bộ áo quần mặc thường của bà công chúa chị mình, Vua
choàng vào và cúi xuống đảnh lễ 10 phương Phật. Vua chấp 2 tay trong dáng điệu
vô cùng hoan hỷ và nói :
"Xưa
kia đệ tử thân nhặt bao nhiêu ngọc ngà châu báu và cứ sợ kho tàng không đủ chắc
chắn để thu giấu kín đáo. Nhưng bây giờ sau khi làm bố thí, đã gieo tất cả vào
phước điền, đệ tử thấy rất yên lòng, vì biết không bao giờ chúng có thể mất mát
đi đâu được".
Nhưng
mặc dù vua Giới Nhật đã tỏ vẻ vô cùng hoan hỷ trong cử chỉ bố thí cao cả của
mình, 18 vị quốc vương nhận thấy áy náy vì không thể để cho 1 vị Đại Vương ăn
mặc tầm thường như thế được. Họ phải xuất tiền của mình trong kho chuộc lại
những thứ áo mão, vòng vàng, chuỗi ngọc, hoa tai, v.v…mà vua Giới Nhật đã bố
thí, và đem dâng lại cho vua.
Sau
khi đại hội Vô già bế mạc, Ngài Huyền Trang xin từ giả vua Giới Nhật để lên
đường về nước.
Bấy
giờ Ngài đã 48 tuổi, và tính ra ở Ấn Độ đúng 15 năm. Trong thời gian ấy không
một giờ phút nào Ngài không nhớ đến tổ quốc. Mặc dù biết thế vua Giới Nhật vẫn
còn muốn cầm Ngài ở lại nữa. Ngài Huyền Trang phải dùng những lời lẽ vô cùng
vững chắc và cảm động mới làm xiêu lòng được vua Giới Nhật. Vua đề nghị nếu
Ngài đi đường thuỷ sẽ cho người theo họ tống. Nhưng Ngài Huyền Trang đã có ý
định từ trước là trở về bằng đường bộ, qua ngã Trung Á. Bao nhiêu cảm tình nồng
hậu và kỷ niệm quý báu đang đợi Ngài ở đấy. Nhất là Ngài không thể quên lời hẹn
với vua Khúc Văn Thái sẽ trở về ở lại nước Cao Xương trong một thời gian vài
năm. Lời hẹn ấy có giá trị như một lời thề không thể làm ngơ được. Vì thế mặc
dù Ngài có thể đi sang cực Đông Ấn Độ đến nước của vua Cưu Ma La rồi vượt núi,
thẳng đường lên phía bắc là đến Trung Hoa, con đường này rất gần, nhưng Ngài
không đi. Có người cho rằng Ngài không
đi đường này vì sợ gặp nhiều nguy hiểm. Nhưng đối với một người đã có
lòng cương quyết, nhiêu kinh nghiệm, không hề sợ gian nguy, hiểm trở như Ngài,
thì có bao giờ lại lùi bước trước một con đường rút ngắn như thế? Lý do Ngài
không đi đường ấy chính là để khỏi thất hứa với vua Cao Xương. Ngài không ngờ
rằng vua Cao Xương khi ấy đã chết rồi.
Khi
Ngài Huyền Trang ra về, vua Giới Nhật trao tặng Ngài rất nhiều lễ vật và truyền
lệnh cho một số quan lính theo hộ tống Ngài đến tận biên giới Ấn Độ để bảo vệ
Ngài khỏi bọn giặc cướp rất nhiều ở sườn núi Hy Mã Lạp Sơn. Vua lại tặng Ngµi một thớt voi quý để chở Ngài đi và viết thư cho các
tiểu vương các nước Ngài sắp đi qua để họ giúp đỡ, tiếp đón Ngài. Còn kinh sách
và tượng Phật mà Ngài đã sưu tầm thì vua truyền lệnh cho một tiểu vương ở Bắc
Ấn Độ chở đi bằng ngựa hay bằng xe trận.
Vua Cưu ma La cũng trao tặng Ngài một bộ áo
bằng lông rất quý để phòng khi mưa gió, khi vượt qua rừng núi. Hai vị vua ấy
còn kéo cả một đạo quân tuỳ tùng theo đưa tiễn Ngài đến mấy mươi dặm đường trên
đồng bằng xứ Bạt La Ra Gia. Phút chia tay, chủ và khách đều không thể cầm được
nước mắt và những tiếng thở dài thương cảm.
Ba
hôm sau, khi Ngài Huyền Trang đi rồi, vua Giới Nhật và Cưu Ma La cùng mấy trăm
kỵ mã lại ruỗi theo Ngài, mong gặp lại lần cuối, và tiễn Ngài thêm mấy dặm
đường nữa mới lui trở về.
Phần XIV. TRÊN ĐƯỜNG VỀ TRUNG QUỐC
Trên
đường về của Ngài Huyền Trang, mặc dù có quân lính của vua Giới Nhật đi hộ
tống, nhưng biên giới phía Bắc Ấn Độ là những nơi đầy dẫy bọn cướp núi, nên
nhiều người vẫn lo ngại sẽ có nhiều sự bất trắc xảy đến cho Ngài. Nhưng Ngài
Huyền Trang vẫn tỏ ra bình tĩnh và tự tin. Ngài sai mét tăng mở đường đi trước nói với bọn cướp :" Chúng
tôi là những tu sĩ ở từ phương xa đến Ấn Độ để nghiên tầm kinh điển Phật pháp.
Hành lý chúng tôi chỉ gồm có kinh sách di bảo phật tích và tượng Phật. Chúng
tôi tin tưởng ở sự rộng lượng của các người, nên đến để xin các người bảo bọc
và giúp đỡ chúng tôi". Ngài Huyền Trang đi sau với các đệ tử và những
người hộ tống. Đi đến đâu, bọn giặc cướp đều để cho Ngài tự do đi qua.
Khi
qua sông Tín Độ, là một trong 2 con sông lớn nhất của Ấn Độ, Ngài cỡi voi lội
qua, còn kinh sách, hành lý và đoàn hộ tống thì đi bằng thuyền lớn. Đến giữa
dòng sông, đột nhiên sóng gió nổi lên dữ dội, thuyền bị lay động mạnh sắp đắm,
kinh sách trong thuyền bị rơi mất hết 50 bộ, và những hạt giống hoa quả lạ ở Ấn
Độ cũng rơi theo. Người phụ trách việc chuyên chở hốt hoảng vội nhảy xuống dòng
sông những may các bạn đồng hành vớt lên được. Tai nạn này đã làm cho Ngài
Huyền Trang buồn rầu nhất trong chuyến Tây Du của Ngài. Nhưng cũng may lúc ấy
vua nước Già Thấp Di La nghe tin Ngài sắp đến, đã đem quân ra đón Ngài ở trên
bờ sông, và trước tai nạn ấy, vua đã an ủi Ngài bằng cách cho người đi chép lại
những bộ kinh đã mất. Vị vua này còn hộ tống Ngài đi qua những nước chư hầu của
mình, và đến đâu cũng truyền tổ chức
những cuộc đón rước Ngài rất trong thể và mở những hội bố thí khắp nơi. Sau khi
từ giả vua Già Thấp Di La, Ngài đi đến phía Tây chân núi Đại Tuyết. Vua cho
người hộ tống Ngài và chuẩn bị chu đáo để Ngài vượt qua ngọn núi đầy nguy hiểm
này. Một vị sĩ quan và độ 100 binh sĩ đi theo mang hành lý, lương thực cho
Ngài, tuy thế cuộc vượt núi này vẫn vô cùng gian khổ. Sau 7 ngày đường họ trèo
lên được một quả núi lớn đầy dẫy những chóp nhọn toàn đá, hình thù quái dị. Đến
đây, không còn có thể đi ngựa được nữa, Ngài Huyền Trang phải xuống ngựa, chống
gậy đi trước mở đường. Sau 7 ngài nữa, họ mới đến được làng nhỏ gồm 100 gia
đình sống bằng nghề nuôi cừu. Ngài Huyền Trang nghỉ lại đấy 1 ngày, rồi khuya
hôm ấy lại tiếp tục leo núi lại. Đường đi bây giờ lại càng hiểm trở hơn lúc
đầu. Đây đó nhan nhản những suối và sông đóng băng, nếu không có những người
bản xứ dẫn đi từng bước thì rất dễ bị rơi xuống vực thẳm. Đoàn lữ hành bây giờ
chỉ còn lại 7 nhà sư, 20 người hầu, 1 con voi, 10 con lừa và 4 con ngựa.
Sau
2 ngày đường họ mới leo lên được một chóp núi cao, toàn đá trắng mà nhìn từ xa,
người ta cứ tưởng là tuyết. Chóp núi này cao đến nổi tuyết và mây không thể bao
phủ được ngọn. Thảo mộc cũng không thể mọc được. Gió thổi mạnh và lạnh buốt đến
nổi không một người nào đứng thẳng đước. Chim cũng không thể vượt ngang chóp
núi, mà phải bay vòng quanh ven sườn.
Đoàn
lữ hành đi dần xuống phía dưới và hạ trại ven sườn nằm nghỉ một đêm. Sáng hôm
sau họ lại tiếp tục cuộc hành trình trong gió tuyết. Sau khi vượt qua được núi
Đại Tuyết, Ngài Huyền Trang ở trọ 1 tháng tại Diệp Hộ Nha, trong doanh trại của
1 vị tiểu vương ở vùng ấy để lấy lại sức và chuẩn bị cuộc vượt qua núi Thống
Lĩnh.
Thống
Lĩnh là một dãy núi cao độ chừng 4,5 ngàn thước, quanh năm có tuyết phủ, cây cỏ
mọc sơ sài, ngoại trừ một loại cây hành thì lại mọc rất nhiều và tốt, vì thế
nên người Trung Hoa mới đặt tên miền núi ấy là Thống Lĩnh. Miền này quá lạnh
lẽo nên dân cư thưa thớt và phải ở trong hang đá, lẫn lộn với súc vật cho đỡ
lạnh. Qua khỏi dãy núi này thì đến một thung lũng nằm giữa hai trái núi cao đồ
sộ, quanh năm có tuyết và gió gào thét một cách ghê rợn. Đoàn lữ hành của Ngài
Huyền Trang lội suối trèo đèo, đi quanh co, trong những dãy núi tuyết ấy hết
ngày này sang ngày khác, nếm đủ những lao khổ cùng cực. Vượt qua Kiệt Bàn Đà, Ô
Sắt mới đến được nước Khư Sa (Thuộc xứ Tân Cương). Từ Khư Sa, Ngài đã đi qua
nước Tích Cư Già và cuối cùng đến nước Vu Điền. Vu Điền là một nước phồn thịnh
có văn hoá cao, dân cư sinh sống về nghề nuôi tằm dệt lụa, làm len dạ và khai
thác cẩm thạch. Tín đồ Phật Giáo ở đây rất đông, tu sĩ có đến 5000 người, hầu
hết theo Đại Thừa. Chùa chiền có đến 100 cảnh. Vua Vu Điền là một Phật tử rất
hâm mộ Ngài Huyền Trang, nên mời Ngài lưu lại Vu Điền trong 7 tháng. Trong thời
gian này Ngài vừa giảng dạy Phật pháp cho dân chúng ở đây, vừa phái người đi
đến các nước Khuất Chi, Khư Sa để dò tìm sao lại các bản kinh bị thất lạc khi
qua sông Tín Độ. Nhưng công việc chính của Ngài trong lúc ở lại Vu Điền là viết
một tờ biểu sai người theo bọn lái buôn mang về Tràng An dâng lên vua Đường
Thái Tông. Sở dĩ có tờ biểu ấy là vì, khi ra đi, Ngài Huyền Trang đã trái lệnh
cấm của triều đình. Ngài sợ bây giờ trở về vua Thái Tông sẽ truy trách cái lỗi
trước, nên viết biểu về vừa tạ tội, vừa có ý báo tin sự thành công của mình
trong cuộc Tây Du.
Sau
khi sai người đem tờ biểu đi rồi, Ngài Huyền Trang ở lại Vu Điền, đêm ngày
trông ngóng tin tức. Thế rồi một buổi sáng kia, sứ giả trở về, mang theo tờ sắc
chiếu của vua Đường Thái Tông. Tờ chiếu có ý như sau :
"Trẫm
nghe tin nhà sư đi phỏng đạo cõi xa, nay mới trở về, hoan hỷ vô chừng ! Mong
kịp về đến nơi cùng trẫm tương kiến. Nếu có những thầy tăng nước ấy mà biết chữ
Phạn, hiểu nghĩa kinh thì cũng cho đem về. Trẫm đã sắc cho các đạo Vu Điền sai
các nước đem quân tiễn tống, cùng là sức người, xe cộ phải cung ứng cho đủ. Lại
sai các quan ty Đôn Hoàng đón tiếp ở bãi Lưu Sa, người nước Nghiệp đón tiếp ở
bến Thư Mạt (Nay là huyện Nặc Khương xứ Tân Cương)".
Phần XV. NGÀY KHẢI HOÀN
Từ
đây, con đường về của Ngài Huyền Trang như có trải nhung lụa. Mỗi đoạn đường là
có người đón tiếp hoan nghênh, phục dịch. Qua rồi những cảnh tượng hãi hùng của
biển cát mênh mông của đèo cao hố hiểm, của mưa tuyết gió băng, của sông sâu
sóng cả. Qua rồi những ngày dµi đói khát,
những đêm đen lạnh lùng, những thú dữ rừng thiêng, những cướp rừng cướp biển !
Đến
Đôn Hoàng, Ngài dừng lại nghỉ ngơi một thời gian và dâng thêm một tờ biểu nữa
để báo tin mình sắp về Tràng An. Vua Đường Thái Tông tiếp tờ biểu, biết Huyền
Trang sắp về tới, liền sai các quan sửa soạn nghênh tiếp Ngài.
Tin
Ngài Huyền Trang ở Ấn Độ trở về lan khắp Trung Quốc một cách nhanh chóng. Khi
Ngài ra đi, tin tức được giữ kín đáo bao nhiêu, thì ngày nay, khi Ngài về, tin
tức lại loan truyền rộng rãi bấy nhiêu. Dân chúng vừa ngạc nhiên, vừa khâm
phục, vừa hiếu kỳ trước một cuộc đi vô cùng mạo hiểm mà họ chưa bao giờ tưởng
tượng được, nên đã tề tựu về Tràng An, đổ xô ra các ngã đường để được chiêm
ngưỡng dung nhan của một bậc vĩ nhân đã làm vẻ vang cho nước nhà và cho nền đạo
pháp. Tràng An hôm ấy được trang hoàng như một đại hội hiếm có. Dân chúng đứng
đông đặc ở các đường phố, làm nghẽn tất cả lối đi, đến nỗi khi Ngài Huyền Trang
xuống thuyền sang sông rồi, nhưng không thể nào lên bờ để vào thành được. Đêm
ấy, Ngài nghỉ lại ở trên sông. Sáng hôm sau, rút kinh nghiệm ở hôm trước, cuộc tiếp
rước Ngài được tổ chức một cách vô cùng rực rỡ và chu đáo.
Tất
cả các vị tăng, ni các chùa ở Tràng An đều tề tựu đông đảo tại đường phố Chu
Tước để rước Ngài về chùa Hồng Phúc. Mọi người đều nô nức mang theo nào hương
án, tµng lọng, tràng phan, bảo cái, hương
hoa. Đám rước diễn hành từ đầu đường Chu Tước cho đến chùa Hồng Phúc, kéo dài
đến mấy dặm đưòng. Các vị tăng, ni đều mặc lễ phục, vừa đi vừa tán tụng theo
điệu nhạc Thiền. Những kinh điển, Phật tượng, xe dù, hoa phan và các sản vật
đem từ Ấn Độ về được sắp đặt rải rác trong các đám rước để dân chúng được chiêm
ngưỡng tận mắt.
Hai
bên đường, các nhân sĩ, quan khách và dân chúng đứng chật ních, nhìn đám rước
đi qua với một dáng điệu vô cùng cảm phục. Người và xe ngựa nhiều quá đến nổi
các người có nhiệm vụ giữ gìn trật tự, để tránh những tai nạn xảy ra, bắt buộc
ai đứng chỗ nào thì ở yên chỗ ấy mà đốt hương trầm hay tung hoa chứ không được
đi theo, đám rước chỉ dành riêng cho giới tăng ni.
Có lẽ đây là lần đầu tiên ở Tràng An được thấy
một cuộc đón tiếp trang nghiêm và đồ sộ như thế. Hôm ấy là ngày 24 tháng giêng
năm 645 (Năm Trinh Quán thứ 19 đời Đường). Sau 17 năm xa cách, Tràng An đã có
nhiều sự thay đổi. Nhưng đối với bản thân Ngài sau cuộc viễn du vĩ đại, lại có
nhiều sự thay đổi hơn. Về thể chất Ngài đã là một ông già 50 tuổi, nhưng về
tinh thần Ngài thu thập được bao nhiêu kinh nghiệm nhân loại về đủ mọi địa hạt,
bao nhiêu tinh hoa của nhân loại, bao nhiêu nguồn sáng của ánh Đạo Vàng.
Về
Tràng An được mấy hôm, Ngài Huyền Trang lật đật lên đường đến Lạc Dương, kinh
đô thứ hai của vua Đường để kịp yết kiến Đường Thái Tông. Đây là lần đầu tiên,
Ngài Huyền Trang được yết kiến Đường Thái Tông. Mặc dù mới gặp nhau, câu chuyện
giữa một cao tăng với một vị anh hùng cái thế, xem như đã tương đắc. Sau khi đón
tiếp và uỷ lạo rất hậu Ngài Huyền Trang, Đường Thái Tông mới gợi chuyện xưa :
-
Khi pháp sư ra đi, sao không báo cho trẫm biết?
Ngài
Huyền Trang kính cẩn trả lời :
-
Trước khi Huyền Trang ra đi, đã hai ba lần tâu xin, chỉ vì lòng thành nhỏ mọn
không đạt tới, nên không được chuẩn y. Song vì lòng mộ đạo khôn xiết, mới tự
lẻn đi, cái tội tự chuyên ấy, bần tăng rất lấy làm sợ hãi.
-
Không, trẫm đâu có trách. Nhà sư đã bỏ tục mà xuất gia, thế mà còn liều mình đi
cầu pháp để mong làm lợi dân sinh, thì thật đáng khen. Trẫm rất lấy làm ngạc
nhiên là non sông cách trở xa xôi thế kia, mỗi phong tục mỗi khác, thế mà sao
nhà sư lại đạt tới được cả?
Trước
lời khen ngợi ấy, Ngài Huyền Trang đã đáp lễ bằng một câu rất khéo :
-
Từ ngày bệ hạ lên ngôi cửu ngũ, bốn phương được phẳng lặng, oai đức của bệ hạ
lan xa đến bên kia Thống Lĩnh. Vua tôi các rợ chư hầu mỗi khi thấy một con hồng
nhạn cỡi mây từ phương Đông lại cũng thành kính đón chào, Huyền Trang được đi
về vô sự cũng nhờ ở cả thiên uy.
Vua
đáp lại một cách khiêm tốn :
-
Lời bậc trưởng thîng nói như
vậy, trẫm đâu dám nhận.
Vua
lại hỏi tình hình ở ngoài cõi Tây vực, từ Thống Lĩnh trở về phía Tây cho đến xứ
Ấn Độ. Ngài Huyền Trang tâu trình một cách thông suốt, rõ ràng như vẽ ra trước
mắt vị vua thông minh và hiếu học ấy. Đường Thái Tông rất lấy lòng vừa ý đẹp
lòng trước sự uyên bác, lịch thiệp của pháp sư nên khuyên Ngài Huyền Trang hoàn
tục để ra tham chính giúp vua. Ngài Huyền Trang một mực từ tạ với những lý lẽ
rất xác đáng.
-
Huyền Trang từ nhỏ đã theo dòng Chi Môn, học về Phật đạo, chuyên tâm Huyền Môn,
chưa từng nghe Khổng giáo. Nay bệ hạ bắt hoàn tục thì chẳng khác gì con thuyền
đang thuận dòng, mà bắt phải bỏ nước lên cạn, chẳng những là vô ích mà còn thêm
hủ bại mà thôi. Xin bệ hạ cho Huyền Trang này được toại nguyện, suốt đời hành
đạo để báo quốc ân.
Biết
không thể lay chuyển được một người đã có dư can đảm và nghị lực để làm theo ý
nguyện tìm đạo của mình, vua không nài ép Ngài hoàn tục nữa, nhưng lại đề nghị
một chuyện khác : Đường Thái Tông sắp đi chinh phạt Liêu Đông, muốn mời Ngài
Huyền Trang đi theo để sớm hôm trò chuyện. Trước lời mời này, Ngài cũng đã từ
chối một cách khéo léo, và còn ngụ ý không tán thành sự chinh chiến của nhà
vua.
-
Bệ hạ đi Đông chinh đã có đại quân hộ vệ, đánh dẹp loạn quân trừ kể tặc thÇn, thế nào cũng có cái công chiến thắng như trận Mục
Dã, các tin báo tiếp như trận Côn Dương. Huyền Trang tự lượng sức không thể hỗ
trợ cho công việc trận mạc được, chỉ thêm thẹn là làm tốn thêm tiền của lộ phí
mà thôi, vả lại việc binh nhung chiến đấu, luật nhà chùa cấm không được dự,
không được xem. Đức Phật Tổ đã có lời dạy cấm sát. Vậy cúi xin thánh thượng mở
lòng thương xót miễn cho".
Một
lần nữa, Đường Thái Tông, một vị đế vương uy quyền lẫm liệt, chưa từng bị ai
làm trái ý, đã hoan hỷ nhượng bộ Ngài Huyền Trang, và để Ngài trở về Tràng An
lo việc phiên dịch 657 bộ kinh điển mới đem từ Ấn Độ về.
Phần XVI. PHIÊN DỊCH KINH ĐIỂN
Ngài
Huyền Trang sau khi yết kiến Đường Thái Tông, trở về Tràng An vào ngày 01 tháng
03 năm 645, ở chïa Hồng Phúc.
Công tác chính của Ngài bấy giờ là lo tổ chức việc phiên dịch những kinh điển
mà Ngài đã mang từ Ấn Độ về.
Ngài
triệu tập một số rất đông các cao tăng học rộng nghe nhiều để cộng tác với Ngài
vì công tác sẽ phức tạp. Về các việc như chứng nghĩa, xuyết văn, bút thụ, thủ
thư … thì có trên 50 người sa môn đảm nhiệm, còn việc dịch cho chỉnh nghĩa thì
có đến 23 vị học thức trác tuyệt. Ngài đã tổ chức một hệ thống phiên dịch rất
hoàn chỉnh gồm có :
-
Vị dịch chủ : là người chỉ huy, tinh thông Hán, Phạn, nghĩa lý phán đoán xác
thực. Chức vụ này do Ngài Huyền Trang đảm nhiệm.
-
Vị bút thụ : dịch nghĩa Phạn văn ra Hoa văn.
-
Vị độ ngữ : thạo tiếng Phạn, đọc lên để nghe âm vận, nếu không ổn thì phiên âm
lại.
-
Vị chứng Phạn : để đem so lại với Phạn văn có đúng không.
-
Vị nhuận văn: làm công việc nhuận văn cho hợp với văn pháp Trung Hoa.
-
Vị chứng nghĩa : đem bản dịch so lại nghĩa nguyên bản, nếu sai thì chữa lại.
-
Vị tổng khám : xét chung lại một lần cuối cùng trước khi hoàn thành bản dịch.
Công
tác phiên dịch bắt đầu trung tuần tháng 5 năm 645 đến cuối năm ấy hoàn tất được
bốn loại như : Đại Bồ Tát tạng kinh (12 quyển), Phật địa kinh (1 quyển), Lục
môn đà la ni kinh (1 quyển), Hiển dương thánh giáo luận (20 quyển). Mùa thu năm
sau, phụng mệnh vua Thái Tông, Ngài thuật cho đệ tử là Biện Cơ chép lại cuộc
Tây du của Ngài trong 17 năm, trải qua 138 nước một cách tường tận. Những điều
Ngài đã nghe thấy, học hỏi về lịch sử, phong thổ, vị trí, sơn xuyên, thổ sản,
nhân tình ở những nơi Ngài đi qua đều được ghi chép thành 12 quyển nhan đề là
"Đại Đường Tây Vực ký". Bộ sách này không những là một bộ du
ký vĩ đại cổ điển, mà còn là một bộ lịch sử, địa lý trọng yếu ghi chép các nước
Trung Á và Ấn Độ. Nhiều nhà học giả chuyên môn ngoại quốc nghiên cứu bộ sách
này đều phải công nhận đó là một bộ sách vô cùng quý báu, có một phạm vi rất
lớn, kỹ thuật chính xác và nội dung phong phú, có giá trị nhất trong các loại
sách du ký thời xưa. Vì thế các nước Liên Xô, Nhật Bản, Anh, Đức, Pháp, Mỹ đều
có phiên dịch ra tiếng nước họ. Ngày nay các nhà bác học chuyên nghiên cứu về
sử, địa dựa vào bộ sách ấy rất nhiều để chỉnh lý những lịch sử, địa lý mơ hồ về
nước Ấn Độ thế kỷ thứ VII.
Tháng
5 năm 648, Ngài Huyền Trang đã dịch xong 9 bộ kinh, lấy đề chung là "Tân
phiên kinh luận". Vua Đường Thái Tông muốn kỷ niệm cuộc Tây du của Ngài
Huyền Trang và ghi công đức của Ngài, nên đích thân tự viết bài tựa cho tập
phiên dịch ấy. Bài tựa nhan đề là "Đại Đường Tam Tạng Thánh giáo" gồm
781 chữ. Đây là một đặc ân vô cùng quý báu mà vua Thái Tông đã dành cho Ngài.
Tháng
10 năm ấy, Hoàng Thái tử Lý Trị, vì muốn kỷ niệm báo ân mẫu thân mình nên xây
dựng tại Tràng An một cảnh chùa đồ sộ, lấy tên là chùa Từ Ân, trong chùa có một
sở đặc biệt dành cho việc phiên dịch gọi là "Phiên kinh viện". Vua
triệu Ngài Huyền Trang đến đấy để tiếp tục phiên dịch cho đủ tiện nghi.
Cuộc
đón rước Ngài Huyền Trang đến chùa Từ Ân đã được triều đình tổ chức rất trọng
thể. Mở đầu đám rước là một pho tượng lớn cung nghinh trên một cổ xe, 2 bên tả
hữu có 2 tràng phang lớn nêu cao trên 2 xe khác. Tiếp theo sau là 1500 chiếc xe
trang hoàng lộng lẫy, 300 lọng gấm, 200 ảnh tượng thêu hay vẽ trên lụa, 500
tràng phang bảo cái thêu bằng kim tuyến. Rồi đến tất cả những kinh điển đã
thỉnh ở Ấn Độ về cũng được rước trên những hương án chở trên xe. 50 vị trưởng
lão hoà thượng được rước trên 50 chiếc xe, còn tăng, ni thì đi bộ theo sau, vừa
đi vừa tung hoa và tụng niệm. Sau nữa là văn quan và võ quan sắp hàng theo thứ
tự cấp bậc. Cuối cùng là 9 ban thanh nhạc trong nội phủ dàn ra thành 2 hàng
dài, vừa đi vừa tấu nhạc.
Dân
chúng Tràng An đều đổ ra xem, ban tổ chức phải huy động đến 1000 binh lính để
theo giữ trật tự ở hai bên đường. Vua Thái Tông, Hoàng Thái Tử và cung phi đều
đứng trên lầu Nhân Phúc Môn, kính cẩn bưng lư hương, trầm nghi ngút nhìn theo
đám rước đang diễn hành vô cùng ngoạn mục và trang nghiêm trên các đường phố đi
đến chùa Từ Ân.
Đường
Thái Tông lúc bấy giờ đã già yếu. Sau một cuộc đời tung hoành ở các trận mạc vô
cùng sôi nổi hiên ngang, Thái Tông cảm nghe mệt mỏi, chỉ thích nơi thanh nhàn
tĩnh mịch. Do đó, mối thân tình giữa Thái Tông và Ngài Huyền Trang càng tăng
lên. Vua thường mời Ngài vào cung giảng đạo và nhất là kể lại cuộc Tây du đầy
mạo hiểm kỳ lạ của Ngài cho vua nghe hay cùng vua đi dạo. Sau khi Đường Thái
Tông mất (10/07/649), Ngài Huyền Trang ít khi bước chân ra khỏi chùa Từ Ân, chỉ
chuyên tâm vào phiên dịch. Ngài sợ thọ mệnh của mình hữu hạn, không làm xong
công tác nặng nề, khó khăn ấy nên lại càng sách lệ mình tinh tấn làm việc, hết
ngày lại đêm không biết mệt. Ngài Huệ Lập là một đệ tử thường túc từng theo bên
Ngài 20 năm, thuật lại sự tinh tấn của Ngài :
"Ngài
ở chùa Từ Ân, chuyên lo phiên dịch, ngày nào gặp việc, dịch chưa xong, thì đêm
đến, dịch thế lại, dịch cho đến chỗ đã làm dấu trước trong nguyên bản mới dừng
bút. Khi dịch xong, Ngài xếp sách đi lễ Phật, kinh hành đến canh ba mới tạm
nghỉ. Sang canh năm Ngài đã trở dậy, đọc to bản kinh chữ Phạn, lấy điểm son làm
dấu thứ tự, định trước những đoạn sẽ dịch trong ngày. Mỗi ngày sau giờ thọ
trai, và lúc hoàng hôn, Ngài giảng kinh luận mới dịch, và giải đáp những nghi
nghĩa mà các học tăng khắp nơi thường đến thỉnh giáo. Ngoài ra vì chức vụ trụ
trì tại chùa của Ngài, nên mọi tăng sự, mọi công quả trong chùa Ngài phải đặt
mắt đến và giải quyết. Tối lại, hàng 100 đệ tử trong chùa đều cầu Ngài dạy bảo.
Đầy nhà, đầy hiên đều là nơi thù đáp, không bỏ sót một ai. Tuy phải nhiều việc
bận rộn như thế, mà lúc nào thần khí của Ngài cũng vẫn thư thái, chẳng chút ủ
trệ" (Đại Từ Ân Tam Tang pháp sư truyện).
Vua
Cao Tông, kế vị vua Thái Tông đối với Ngài cũng rất kính mến, nhưng thỉnh
thoảng Ngài mới đến yết kiến, vì sợ mất thì giờ cho công tác phiên dịch mà Ngài
cho như là công tác chính sau cuộc Tây Du.
Tháng
3 năm 652 (Năm Vĩnh Huy thứ 3) Đường Cao Tông vì muốn làm nơi chứa kinh điển và
tượng Phật đem từ Ấn độ về, mới dựng một toà tháp 5 tầng ở phía Tây chùa Từ Ân.
Từ ngày khởi công, cứ sáng sớm, người ta thấy một vị sư già ngoài 50 tuổi vác
gạch đá, mới nhìn không ai có thể nhận ra vị sư ấy chính là Ngài Huyền Trang,
người đã được cả vua chúa từ Ấn Độ đến Trung Hoa kính bái như một bậc thầy cao
cả. Ngài cùng công nhân xây dựng tháp ấy trong 2 năm mới xong, toà tháp ấy ngày
nay vẫn còn đứng sừng sững ở thành Tây Ân, tỉnh Thiểm Tây.
Sau
đó 5 năm, Ngài lại dịch được thêm 10 bộ kinh luận nữa. Bấy giờ Ngài đã già yếu,
vì đã dùng sức quá độ trong cuộc Tây Du và trong việc phiên dịch, Ngài thường
có chứng đau ngực mà Ngài đã mắc phải trong khi vượt núi Thống Lĩnh. Đau thì
Ngài dùng thuốc chứ không bao giờ nghỉ việc phiên dịch và dạy học.
Lạc
Dương là quê quán của Ngài, và đây là lần đầu tiên Ngài được dịp về thăm quê
hương sau gần 40 năm xa cách. Thân thuộc của Ngài bây giờ chỉ còn một người chị
già, lấy chồng ở Doanh Châu. Ngài cho người đi đón chị về. Chị em gặp nhau,
mừng mừng tủi tủi, không nói nên lời. Ngài nhờ chị dẫn đến mộ phần song thân
qua đời đã gần 40 năm trước lúc nhà Tuỳ đang ở trong cảnh hoạn lạc. Nhận thấy
mộ phần song thân lâu ngày bị bỏ đồi tệ, Ngài tự đi tìm đất, sắm quan cách cải
táng hài cốt của song thân. Trong cuộc cải táng này, cả tăng lẫn tục có trên 10
ngàn người.
Đến
65 tuổi, tại Ngọc Hoa Cung, Ngài bắt đầu dịch bộ kinh sau cùng bằng chữ Phạn là
bộ Đại Bát Nhã kinh, tổng cộng có 200 ngµn bài tụng
là công việc rất to tát và khó khăn.
Các
đệ tử đều cho rằng số chữ nhiều quá nên rút ngắn lại, Ngài Huyền Trang trái
lại, có quan niệm rằng việc phiên dịch không nên vì số chữ nhiêu mà cắt bớt
nguyên văn và dịch tiết để làm mất nguyên ý. Ngài chủ trương không bỏ một chữ
nào, cứ phiên dịch thật đúng toàn bộ. Thật là một quan niệm rất sáng suốt và
phương pháp làm việc của Ngài cũng rất khoa học : Ngài lấy 3 bộ "Đại Bát
Nhã" không cùng một mẫu đem từ Ấn Độ về, kể đến đoạn nào ngờ thì đem ra so
sánh, hiệu duyệt cẩn thận đến 2,3 lần mới dám hạ bút.
Trước
khi cầm bút dịch bộ kinh đồ sộ này, Ngài nói với Chư tăng :"Trang nay đã
65 tuổi, tất sẽ lâm chung tại Già Lam này, mà kinh bộ thì quá lớn, sợ e dịch
không trọn được. Vậy chư vị hãy gắng sức gia công, chớ từ lao khổ".
Ngài
và các đệ tử tinh tấn làm việc, không một chút trễ biếng, trong hơn 3 năm trời
mới dịch xong bộ kinh gồm 600 quyển ấy (tháng 11/663). Năm ấy Ngài đã 68 tuổi.
Và ngày từ giã cõi đời cũng sắp đến với Ngài rồi!
Phần XVII. TỪ GIÃ CÕI ĐỜI
Sau
khi phiên dịch xong tổng cộng 75 bộ kinh chữ Phạn, gồm 1.335 quyển, Ngài Huyền
Trang nhận thấy sức lực mình đến đây đã suy nhược lắm rồi và ngày từ giã cõi
đời cũng không còn bao lâu nữa.
Vào
cuối tháng giêng năm Lân Đức nguyên môn (664), các vị đại đức dịch kinh và đồ
chúng ân cần xin Ngài dịch tiếp bộ kinh Đại Bảo Tích. Mặc dù đã 69 tuổi và
trong mình đã suy yếu lắm rồi, Ngài vẫn nắm bút gắng gượng dịch để khỏi phụ
lòng tha thiết của chúng tăng. Dịch được ít dòng, Ngài đặt bút xuống, xếp bản
sách chữ Phạn lại bảo đại chúng rằng :
"Số
lượng bộ kinh này cũng bằng số lượng Đại Bát Nhã, Huyền Trang tự lượng khí lực
không còn dịch nổi. Giờ chết sắp đến, thế không lâu nữa, nay ta muốn qua hang
Chi Lan lễ từ Phật tượng mà thôi".
Môn
nhân tăng chúng cùng đi với Ngài. Lạy Phật xong Ngài trở về chùa, nghỉ hẳn việc
dịch, chuyên tinh hành đạo. Nửa đêm ngày 05/02 Ngài viên tịch. Trước khi viên
tịch, Ngài hội đệ tử lại dạy rằng :
"Ta
nhận biết ngày lâm chung của ta sắp đến rồi. Sau khi ta mất, các người hãy tống
táng ta một cách đơn sơ giản dị. Hãy bỏ di hài ta vào một manh chiếu và an táng
ở một nơi nào thâm u tĩnh mịch chứ đừng bày vẽ nhiều điều vô ích"
Vài
giờ trước khi mất, sau một giấc ngủ, Ngài thức dậy và hoan hỷ kể cho các đệ tử
nghe rằng Ngài vừa nhận thấy một toà sen rất lớn vô cùng đẹp đẽ nở ra trước
mắt. Ngài lại chiêm bao thấy những người rất cao lớn ăn mặc toàn gấm vóc, nắm
những dãi lụa thêu hoa và thất bảo, từ phòng Ngài sang phòng phiên dịch để
trang hoàng, từ trong cho đến ngoài phòng. Ngài lại nói với các đệ tử :
"Các
người hãy bình tĩnh và hoan hỷ từ giã thân giả tạm này sau khi nó đã làm xong
nhiệm vụ. Ta nguyện đem công đức này hồi hướng khắp tất cả chúng sanh, và cùng
chúng sanh chứng nhập cung trời Đạo Ly. Ta nguyện trong những kiếp sau, trở về
cõi ta bà này để hoá độ chúng sanh cho đến khi được giác ngộ hoàn toàn.
Nam
mô Di Lặc Tôn Phật, xin Ngài hãy thị hiện trong cõi ta bà này để đệ tử và chúng
sanh được chiêm ngưỡng. Nam mô Di Lặc Tôn Phật, xin Ngài hãy độ cho đệ tử được
vào hàng thánh chúng của Ngài"
Pháp
sư Huyền Trang nhập định và trút hơi thở cuối cùng. Sắc mặt Ngài vẫn hồng hào
và nét mặt Ngài phản chiếu một niềm hoan lạc vô biên.
Ngài mất vào giữa đêm 05/02/664, tại Ngọc Hoa
Cung, hưởng thọ 69 tuổi. Nghe tin Ngài từ trần, vua Đường Cao Tông và quan dân
tăng chúng không ai không cầm được nước mắt vì thương tiếc Ngài. Tại cung vua b·i triều 3 ngày.
Lễ
an táng Ngài cử hành vào Ngày 14/04 tại Bạch Lộc Nguyên, víi sự tham dự của hơn 100 vạn người (1000.000) ở Tràng
An và các miền phụ cận, trong số ấy có 3 vạn người làm lều ở cạnh mộ Ngài mà ở.
Với con số người hộ táng ấy đã nói lên sự cảm
phục và thương mến của mọi người đối với Ngài thiết tha biết bao nhiêu!
Soạn xong lúc 9 giờ ngày 02/10/2007.
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
1.
Đường Tam Tạng thỉnh kinh - Võ Đình Cường.
2.
Cuộc đời Ngài Huyền Trang (§Üa gi¶ng) - HT.
Thích Thiện Siêu.
3.
Muôn dặm không mây - Tôn Thư Vân - NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh
2006.
MỤC LỤC
0 nhận xét:
Đăng nhận xét