TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO
Để
hiểu rõ về một tôn giáo rất khó và nắm về tinh hoa của tôn giáo lại càng khó
hơn. Tín ngưỡng tôn giáo đã có mặt rất lâu có từ thời nguyên thủy, và có rất
nhiều loại tôn giáo và tập tục tín ngưỡng, không thể nào hểu hết được. Tín ngưỡng
gồm có tín ngưỡng nhân gian tập tục và tín ngưỡng tôn giáo.
Nói
về tôn giáo thì có Giáo chủ, giáo lý, nghi thức và giáo dân. Còn tín ngưỡng
nhân gian thì đối tượng niềm tin có khi là con vật, hòn đá gốc cây v.v... không có giáo lý và chỉ có nghi lễ mà thôi. Dù
là tín ngưỡng nhân gian hay tín ngưỡng tôn giáo, đối với các thành phần trí
thức trong xã hội hiện đại, đương nhiên không ít người là tín đồ của tôn giáo,
nhưng thực sự cũng có rất nhiều người không ưa thích tôn giáo. Trên thực tế,
văn hóa của nhân loại hoàn toàn từ tôn giáo mà ra. Mỗi một sinh hoạt hằng ngày
của con người ngày nay, mặc dù không có cảm nhận về tâm lý tôn giáo, nhưng cũng
khó mà không mang dấu ấn của các hiện tượng tôn giáo. Những tác phẩm văn học xa
xưa nhất, vĩ đại nhất của thế giới, như
Sử Thi Homer của Hy Lạp, văn học Veda của Ấn Độ, Kinh Dịch của Trung
Hoa, Cựu Ước của người Do Thái… không tác phẩm nào không phải là sản vật của
tôn giáo. Nghệ thuật kiến trúc kỳ vĩ thời xưa được thể hiện ở ngay nơi tại cơ
sở thờ tự của các tôn giáo. Những tác phẩm điêu khắc và tranh tường sớm nhất,
nổi tiếng nhất cũng đều là di sản của tôn giáo. Môn hóa học phát triển từ thời
cận đại có nguồn gốc từ thuật luyện kim của tôn giáo cổ (ở Trung Quốc là thuật
luyện đan). Thiên văn học cận đại cũng thoát thai từ sự sùng bái chiêm tinh trong
tín ngưỡng tôn giáo. Và các loại nghi lễ của con người ngày nay, từ tổng thống
tuyên thệ nhậm chức cho đến cá nhân tuyên thệ kết hôn, từ thành kính chào cờ
đến bắt tay, cúi chào nhau, từ bắn súng chào trong quân đội đến giơ tay chào
trong nhân gian, từ lễ thắp đuốc ở các sân vận động đến lễ phục của những cô
dâu xuất giá, cùng tất cả lễ nghi, lễ tiết trong xã giao, không một nghi lễ nào
là không bắt nguồn từ tôn giáo cổ đại. Tuy đa số đã được cải tiến và đơn giản
hóa, nhưng vẫn còn đó mối quan hệ với những nghi lễ của tổ tiên chúng ta, ví dụ
giữa cái cúi chào ngày nay và quỳ lạy ngày xưa, cũng chỉ như sự khác biệt giữa
50 bước và 100 bước mà thôi.
I. Phạm vi của Tôn giáo
học.
-
Định nghĩa: Từ “ Tôn giáo” rất khó định nghĩa chính xác, cái nghĩa “lấy
đạo thần thánh để giáo hóa nhân dân ” mà thiên Hệ Từ trong Kinh Dịch đã nói có
lẽ sát nghĩa nhất với từ này
Do
đó, hai chữ “Tôn giáo” đem dùng cho Phật
giáo thật không thích hợp, vì Phật giáo từ trước đến nay chưa từng kết hợp hai
chữ này lại với nhau để sử dụng. Nếu theo lập trường của Thiền tông, giáo không
dùng ngôn từ gọi là “tôn”, mượn từ để làm rõ tôn gọi là “giáo” cách dùng này
hoàn toàn khác biệt với hàm nghĩa của từ “Religion”. Tôn giáo là sự sùng bái đa
thần hoặc nhất thần hay sùng bái tự nhiên của loài người thời nguyên thủy.
Nhưng tất cả tín ngưỡng của nhân loại đều có một nguyên tắc chung: Bất luận tín
ngưỡng tôn giáo nguyên thủy hay tín
ngưỡng tiến hóa sau này đều có mục đích giống nhau là tìm cầu sự an ủi. Vì thế
tuy các tôn giáo cao cấp, đứng trên lập trường của mình, đều không muốn tự nhận
mình là tôn giáo, nhưng tất cả các nhà tôn giáo học, xuất phát từ thái độ
nghiên cứu của họ, vẫn đưa tất cả những tín ngưỡng tìm cầu sự an ủi vào trong
phạm vi của tôn giáo.
Nói khái quát, những đạo lý căn bản mà
người ta tin tưởng và đem ra truyền dạy cho nhiều người chính là tôn giáo. Nếu
vậy, tất cả các trường phái học thuật đều có thể gọi là tôn giáo, cho đến chủ
nghĩa duy vật chống tôn giáo cũng nằm trong định nghĩa về tôn giáo. Ý nghĩa
thường dùng để chỉ tôn giáo không hẳn là như thế.
Sự
ra đời của tôn giáo bắt nguồn từ sự thật tâm lý hoặc kinh nghiệm. Sự thật này
biểu hiện trong quá trình lịch sử của nhân loại, làm hình thành nên ý thức tôn
giáo của dân gian hoặc của xã hội Vì vậy, điều đầu tiên mà những nhà nghiên cứu
lịch sử tôn giáo từ xưa đến nay phải chú ý tới là ý thức tôn giáo được cấu
thành từ những sự thật tâm lý. Sự thay đổi ý thức tôn giáo chính là sự tiến hóa
của tư tưởng tôn giáo.
Ý
thức tôn giáo xuất phát từ nhu cầu tâm lý rộng lớn và phức tạp của con người.
Khái niệm về ý thức tôn giáo trừu tượng này, khi biểu hiện ra đời sống thực tế
của nhân gian sẽ trở thành sự thực tôn giáo, đó là những yếu tố có giá trị của
đời sống con người như nghệ thuật, đạo đức và kinh tế.
Định
nghĩa về tôn giáo không dễ dàng gì, nhưng cũng có nhiều học giả từng làm việc
này, trong đó được sử dụng nhiều nhất là định nghĩa của Edward B. Tylor và
James G. Frazer. Tylor nói rằng, định nghĩa hẹp nhất của tôn giáo là “tín
ngưỡng vào sự tồn tại của quỷ thần”. Thuyết này tuy nêu lên được thái độ và đối
tượng của tôn giáo, nhưng chưa nói đến hành vi (nghi thức) của tôn giáo. Đồng
thời, sùng bái quỷ thần cũng chỉ là một trong những loại tôn giáo nguyên thủy,
không thể khái quát toàn bộ tín ngưỡng tôn giáo. Frazer thì nói rằng, tôn giáo
là “thủ tục hòa giải đối với quyền lực thống trị tự nhiên và đời sống con người
của các đấng siêu nhiên”. Thuyết này đã bổ khuyết cho thuyết trên, nhưng vẫn
còn chưa được hoàn hảo. Robert R. Marett cho rằng tốt nhất là dùng từ “thần
thánh” để thuyết minh về đối tượng của tôn giáo. Từ này phạm vi rất rộng, có
thể bao gồm cả siêu nhiên hoặc tự nhiên, quỷ thần hoặc phi quỷ thần, tôn giáo
hoặc ma thuật. Do từ “thần thánh” hàm chứa những ý nghĩa như: cấm kỵ, thần kỳ,
bí mật, có khả năng và quyền lực, linh hoạt, cổ xưa … nên có người cho rằng,
định nghĩa tôn giáo đơn giản nhất, nên chọn lấy thuyết “thần thánh” của Marett.
- Nguồn gốc của tôn giáo:
Nhu
cầu về tín ngưỡng tôn giáo ra đời cùng với sự xuất hiện của loài người, Vì sao
con người lại có nhu cầu tín ngưỡng này? Thông thường các nhà học giả đều cho
rằng tôn giáo bắt nguồn từ tâm lý sợ hãi của con người. Thuyết này bắt nguồn từ
câu nói của triết gia La Mã Lucretius rằng: “ các vị thần đầu tiên được tạo ra từ nỗi sự hãi”. Cùng một
quan niệm đó, triết gia người Anh Thomas Hobbes (1588- 1679) cho rằng: “ sợ hãi
những sự vật vô hình là mầm mống tự nhiên của tôn giáo”. David Hume (1711-1776)
cũng đồng ý với cách nói này.
Tính
tàn phá khó lường của các sức mạnh ngoại tại làm sinh ra nỗi sợ hãi nơi con
người, do tâm lý sợ hãi này, con người bèn tưởng rằng có một hoặc nhiều nhân
vật quyền uy và vô hình đang nắm giữ nhân loại, trừng phạt nhân loại và gây tai
họa cho nhân loại. Một số nhà tiên tri nghĩ rằng có thể cầu nguyện sự khoan thứ
từ những nhân vật này bằng cách kính lễ và cúng tế. Việc dùng tâm lý con người
để xét đoán đã làm cho nhân vật đầy quyền năng này trở nên có hình dạng giống
người và thông hiểu được lòng người. Việc thỉnh cầu và đền đáp giữa con người
với con người đã chuyển thành việc cầu xin và tạ ơn của con người đối với đấng
siêu nhiên bất khả tri. Hai việc này chính là nguồn gốc của niềm tin tôn giáo
và nghi thức tôn giáo.
Giddings cho rằng tôn giáo khởi nguyên từ
những “thực thể vô cùng đáng sợ ”, và rằng những quan niệm tôn giáo đầu tiên
chỉ là mớ ý niệm mơ hồ, sau đó dần dần được phân hóa rõ nét. Người nguyên thủy
lúc đầu chỉ tin vào thực thể vô cùng đáng sợ, sau mới biển đổi thành những tín
ngưỡng sùng bái cụ thể, ví dụ như sùng bái quỷ thần.
Tylor
lại cho rằng ngọn nguồn của tôn giáo là “quan niệm vô hạn”. Khi loài người đối
phó với môi trường sống xung quanh mình, do năng lực của loài người không thể
so sánh được với sức mạnh của tự nhiên, nên đã nảy sinh ra quan niệm vô hạn và
tín ngưỡng sùng bái sức mạnh đó.
1- Sùng bái tự nhiên:
Tri
thức của con người thời nguyên thủy chưa được khai mở, không hiểu biết gì về sự
vận hành, biến đổi của thế giới tự nhiên, nên tự cảm thấy mình quá nhỏ bé,
trong khi sức mạnh tự nhiên thì quá vĩ đại, khó lường. Sự sùng bái những sức
mạnh này làm sản sinh ra hàng loạt các vị thần tự nhiên mô phỏng theo hình dáng
con người, chẳng hạn như: những người sống gần núi thấy núi cao lớn sừng sững
liền nghĩ ra thần núi, những người sống gần biển thấy biển rộng mênh mông bát
ngát liền nghĩ ra thần biển, nơi không có núi và biển thì sinh ra thần đất, nơi
nào có nhiều gió thì sinh ra thần gió. Tóm lại, sự xuất hiện của các thần tự
nhiên có quan hệ với hoàn cảnh địa lý ở mỗi nơi.
Những
đối tượng trong tự nhiên được người nguyên thủy tín ngưỡng nhất gồm có các loại
như sau:
2- Sùng bái đất:
Thời nguyên thủy, con người xem
đất là một sinh vật, thổ nhưỡng là da thịt của đất, nham thạch là xương cốt của
đất, sông suối là mạch máu của đất và không khí là hơi thở của đất. Vì đất có
thể sinh dưỡng vạn vật nên được gọi là “mẹ đất”. Đã có mẹ ắt phải có cha. Người
ta bèn liên tưởng đến và gọi bầu trời trùm trên mặt đất là “cha trời”. Mẹ đất
sinh ra và nuôi lớn vạn vật là nhờ ân huệ của cha trời. Tại Trung Quốc, quan
niệm “mẹ đất, cha trời” biểu hiện ở tín ngưỡng càn khôn, âm dương. Có thể nói,
đây là quan niệm căn bản của người nguyên thủy. Nó được thể hiện bằng những
thần thoại nhân cách hóa, nên các đạo lý lớn lao về trời đất, âm dương đều được
ra đời phỏng theo quan niệm của con người về việc giao hợp nam nữ. Các dân tộc
Hy lạp, La Mã, Ấn Độ.. có một loại tín ngưỡng tôn giáo rất kỳ lạ, đó là “sùng
bái cơ quan sinh dục”. Họ lấy những khối đá tự nhiên trông giống như cơ quan
sinh dục của người nam và người nữ đặt trong điện thờ để lễ bái. Do tín ngưỡng
sùng bái cơ quan sinh dục là kết quả tất nhiên của ý tưởng nhân cách hóa trời
đất, tức lấy bộ phận sinh dục của người nam tượng trưng cho cha trời và của
người nữ tượng trưng cho mẹ đất, nên bản thân tín ngưỡng này không những không
có chút ý nghĩa dâm ô nào, mà trái lại còn mang đạo lý vô cùng trang nghiêm.
3-Sùng bái nước:
Nước là thứ không thể thiếu đối với tất cả sinh vật, nhưng nước cũng là
thứ có thể chảy tràn khắp nơi, gây nên lũ lụt, nhận chìm mọi vật. Vì vậy, nó
được người nguyên thủy xem là “thần thánh ” và “thần bí ”. Suối thánh, giếng
thần, nước thánh… đâu đâu cũng có. Việc Bà la Môn giáo xem nước sông hằng là
nước thánh hay việc Jesus được làm lễ rửa tội bên bờ sông Jordan… đều có nguồn
gốc tín ngưỡng sùng bái nước; người Hy Lạp cổ và người La Mã còn ném sinh vật
xuống biển để tế thần biển, người Peru cổ gọi biển là “mẹ biển”, họ sùng bái
biển vì xem biển là người cung cấp thức ăn cho mình.
4- Sùng bái đá và núi:
Có những hòn đá mang hình dạng giống với các loài động vật ngẫu nhiên
hình thành trong tự nhiên hoặc là di vật do người cổ đại đẽo gọt nên. Người
nguyên thủy xem chúng là thần hoặc thánh tích. Tín ngưỡng ấy phổ biến trên toàn
thế giới và vẫn còn tồn tại ở cả những tôn giáo cao cấp sau này, ví dụ như
người Hồi giáo xem Hòn đá đen ở thành Mecca là thánh vật và đến lễ bái nó. Lịch
sử của dân tộc Hy Lạp, La Mã, Do Thái, Mexico và các dân cổ đại khác đều co ghi
chép về tín ngưỡng sùng bái đá.
Còn về sùng bái núi, lễ cúng lớn
nhất của Trung Quốc cổ đại là lễ cúng núi Thái Sơn do đích thân hoàng đế chủ
trì. Người Ấn Độ xem dãy núi Himalaya là
cái trục của thế giới, các vị thần đều ngự ở trên đó. Người ta quan niệm rằng ở
trên núi là nơi ngự trị của các bậc thần tiên, cho nên người ta sùng bái núi.
5- Sùng bái lửa:
Người
nguyên thủy không biết tạo ra lửa, Lửa trong tự nhiên, như lửa từ sấm sét hay
từ núi lửa, đối với họ đều rất đáng sợ, vì lửa có thể nuốt chửng tất cả sinh
vật. Tình cờ phát hiện ra xác thú vật được lửa nướng chín thơm phức còn sót lại
sau các đợt cháy rừng, người nguyên thủy liền cho rằng lửa là một sinh vật sống
có thể ăn thịt các sinh vật khác, thậm chí cho rằng lửa là thần linh, tín
ngưỡng thờ lửa bắt đầu từ đó. Thời Phật còn tại thế ba anh em ông Maha Kassapa,
đại đệ tử của Phật, vốn là ngoại đạo thờ lửa, người Hy Lạp cổ trong mỗi gia
đình phải giữ một ngọn lửa cháy sáng mãi để thờ nữ thần bếp lửa. Những người Ấn
Độ thuộc chủng tộc Brahmana (Bà la môn) cũng không dám dùng miệng để thổi tắt
lửa.
6- Sùng bái mặt trời, mặt trăng và các vì sao:
Sự xoay vần tiếp nối của ngày và đêm là điều làm cho người nguyên thủy
kinh ngạc nhất. Có thể nói rằng, sợ bóng tối là nỗi sợ hãi bẩm sinh của con
người. Đêm tối làm cản trở hoạt động của con người, nhưng lại giúp ích cho
nhiều sinh vật khác, vì vậy nó được xem là thần bí. Có ánh sáng, con người mới
có thể hoạt động. Ánh sáng là ân huệ, nên con người sùng bái mặt trời chiếu
sáng ban ngày, cùng mặt trăng và các vì sao chiếu sáng ban đêm. Nước Anh cổ
từng dựng một cột đá lớn để tế mặt trời, còn lập cả tế đàn để cúng thần mặt
trăng. Nhưng ở những nơi hạn hán thì mặt trời trở thành vật đáng sợ, cư dân nơi
đó chỉ sùng bái thần mặt trăng.
Tín ngưỡng sùng bái mặt trời rất
phổ biến: như dân tộc Yamato ở Nhật Bản tự cho mình là con của thần mặt trời,
đến tận ngày vẫn còn lấy mặt trời tượng trưng cho quốc gia của mình.
Tín ngưỡng sùng bái sao cũng thấy
có ở khắp nơi trên thế giới. Những nhà thiên văn học đầu tiên chính là một số
chiêm tinh gia mang đậm nét tôn giáo. Họ có thể dự đoán điềm lành dữ của con
người, độ thọ yểu của tuổi tác, sự tốt xấu của thời tiết hay điều may xui của
số mạng từ sự vận hành của các vì sao. Việc lễ bái sao Bắc Đẩu của Đạo giáo
Trung Quốc chính là tín ngưỡng sùng bái sao. Người Chaldea và người Do Thái xưa
cũng kết hợp thuật chiêm tinh và tín ngưỡng sùng bái sao làm một, họ xem các vì
sao là nơi ở của các thần linh. Khi Jesus ra đời, có truyền thuyết rằng một
ngôi sao đã dẫn đường cho ba vị đạo sĩ Ba Tư đến bái kiến con của Chúa. Ở nhiều
nơi, sao băng thường bị xem là điềm báo của tai họa. Người da đen ở châu Phi
thì cho rằng sao băng là những thầy phù thủy đã chết quay lại để gây tai họa
cho họ.
7- Sùng bái động vật:
Động vật nói ở đây đồng nghĩa với từ “animal” trong tiếng Anh, không bao
gồm con người trong đó. Người nguyên thủy cảm thấy hoảng sợ trước các loài động
vật to khỏe và cảm thấy kỳ lạ trước các loài động vật có khả năng thích ứng với
môi trường tự nhiên hơn mình. Vì loài người có rất nhiều điểm không bằng động
vật, nên mới nảy sinh ra tín ngưỡng sùng bái động vật.
Những thần linh mà các dân tộc
phụng thờ khác nhau tùy theo từng hoàn cảnh, các loài động vật được sùng bái
cũng khác nhau tùy theo từng địa phương. Ví dụ, đối tượng sùng bái của dân tộc
phương Bắc là sói và gấu, còn các dân tộc phương Nam là sư tử, voi, hổ, cá sấu
v.v.
Các loài động vật mà người Ai Cập cổ sùng bái rất đa dạng, chẳng hạn như
bò, rắn, mèo, chim ưng, cá sấu … Người Ấn Độ thì sùng bái cả chim, thú lẫn các
loài bò sát, trong đó được tôn sùng nhất là bò, rắn, chim ưng và vượn; đặc
biệt, bò đực ở xứ Ấn Độ được xem là loài động vật vô cùng thiêng liêng. Phần đông
các nước trên thế giới nơi đâu cũng có sự sùng bái động vật trên khô cũng như
dưới nước như chó, rắn, chim, gấu, cá sấu v.v... có xứ kiêng kị cá không vảy là
động vật mang lại sự xui xẻo, có loại cá cấm không được ăn .
Trong các loài động vật được con người sùng bái thì rắn là loài thường
thấy nhất. Như Kinh Sáng Thế Ký trong bộ kinh Cựu Ước của Do Thái giáo lấy rắn
làm kẻ thù số một của loài người. Lại có nơi thờ rắn, nuôi rắn như ở Malaysia
có một đền thờ rắn, ở đây có rất nhiều rắn độc, nhưng chúng không hề cắn người.
Hiện nay còn tìm thấy phong tục sùng bái rắn ở nhiều nơi trên thế giới. Tại
Trung Quốc rắn cũng thường được xem là loại động vật thần thoại.
8- Sùng bái thực vật:
Sự đâm chồi vào mùa xuân, sự sinh trưởng trong mùa hạ, sự héo tàn trong
mùa thu và sự ẩn tàng trong mùa đông, những biểu hiện của sức sống và thích
nghi với khí hậu của thực vật đã khiến người nguyên thủy cho rằng chúng cũng có
linh hồn chủ tể và cũng có tình cảm, ý chí giống con người. Một số loài thực
vật có chứa chất dịch đặc thù có thể làm cho con người bị say hoặc trúng độc,
nên cũng được con người rất kính sợ. Ví dụ tên thần rượu Soma của Ấn Độ, vốn
tên của một loài cỏ dại, cỏ này có thể nấu rượu, người ta dùng rượu đó để tế
thần nên Soma đã trở thành tên của thần.
Những cây cổ thụ to lớn, trang nghiêm thường được con người xem như thần
thánh và nhân cách hóa cho giống con người. Thần cây hoặc cây thần đều có thể
tìm thấy ở rất nhiều nơi trên thế giới. Cây thần có thể trị bệnh, có thể nói
chuyện với người, thậm chí hóa thành người để yêu đương và kết hôn với người.
Trong truyền thuyết còn có cả chuyện người sống biến thành cây nữa.
Người Thái Lan trước khi chặt cây phải cúng bánh và gạo cho cây. Trong
Tạng Luật của Phật giáo quy định một Tỳ
kheo muốn chặt cây phải xin phép cây trước, điều luật này bắt nguồn từ phong
tục xưa của Ấn Độ.
Theo quan điểm của Phật giáo, phần lớn quỷ thần cư ngụ nơi thân cây cọng
cỏ, cỏ cây linh nghiệm không phải là do bản thân cỏ cây mà là nhờ quỷ thần sống
nương trên đó. Vì vậy, Phật giáo tuy cũng công nhận sự tồn tại của quỷ thần,
nhưng khác với tôn giáo nguyên thủy sùng bái vạn vật, tín đồ Phật giáo chánh
tín không sùng bái quỷ thần./.
9- Sùng bái vật tổ:
Sùng bái vật tổ là một trong những hình thái tôn giáo nguyên thủy. Về ý
nghĩa của nó, Frazer nói: “Vật tổ là một loại vật tự nhiên nào đó mà những
người hoang dã cho rằng mỗi vật như vậy đều có quan hệ mật thiết và đặc thù với
họ, vì thế họ sùng kính nó một cách mê tín”.
Reinach thì nói cụ thể hơn: “Vật tổ chỉ cho một loại động, thực vật, hoặc
vật vô sinh nào đó mà người trong các thị tộc phụng thờ làm tổ tiên, người bảo
hộ hay người làm biểu tượng cho sự đoàn kết của họ ”.
Những vật được tôn làm vật tổ tuy không hạn chế nhưng thực tế thì phần
nhiều là động thực vật. Ví dụ như trong 500 vật tổ của thổ dân miền Đông Nam
châu Úc, chỉ có 40 thứ không phải là động, thực vật, như: mây, mưa, sương,
ráng, mặt trời, mặt trăng, gió, mùa thu, mùa hạ, mùa đông, ngôi sao, tiếng sấm,
lửa, khói, nước, núi, biển v.v...
Vật tổ là chỉ toàn bộ chủng loại,
chẳng hạn như lấy chuột túi làm vật tổ, thì chỉ toàn bộ loài chuột túi, không phải chỉ một con đơn
lẻ nào. Khi lấy một loài vật nào đó làm vật tổ, thường thì người ta sẽ không
dám giết hại hoặc ăn thịt loài vật ấy. Chỉ trong hoàn cảnh đặc biệt, như cử
hành nghi thức tôn giáo, hoặc loài ấy là động vật nguy hiểm, hoặc trừ vật tổ ra
không còn vật gì khác để ăn được, mới giết vật tổ ăn thịt. Có một dân tộc ở
miền Bắc Nhật Bản đến nay vẫn còn tổ chức giết gấu như là một nghi thức tôn
giáo trang nghiêm.
Người nguyên thủy xem việc giết vật tổ ăn thịt là nghi thức tôn giáo
thiêng liêng. Cơ Đốc giáo đến tận ngày nay vẫn cử hành Tiệc Thánh, “ăn thịt và uống máu của Jesus” (Trong
bữa ăn cuối cùng trước khi bị đóng đinh lên thập tự giá, Jesus lấy bánh, bẻ ra,
phân phát cho các các môn đồ và nói rằng: “Này là thân thể của ta”, rồi lấy
rượu đưa cho họ và phán rằng: “Này là máu của ta”. Lại còn căn dặn: “Hãy làm
điều này để nhớ đến ta”. Cho nên ngày nay, tín hữu Cơ Đốc giáo cử hành Tiệc
Thánh hằng năm để tưởng nhớ Jesus theo những việc mà ông đã làm trong bữa ăn
tối cuối cùng đó). Mối quan hệ giữa việc làm này với tín ngưỡng sùng bái vật tổ
rất rõ ràng. Nhưng, người nguyên thủy cũng phải làm cho vật tổ của bộ tộc mình
sinh sôi nấy nở để làm thức ăn cho bộ tộc khác, hai bộ tộc ăn thịt vật tổ của
nhau là điều không bị cấm đoán.
Người châu Mỹ và châu Úc, những nơi khác cũng có dấu tích của tín ngưỡng
sùng bái vật tổ. Người Bechuana ở miền Nam châu Phi phân chia thành tộc cá sấu,
tộc cá, tộc khỉ, tộc bò, tộc voi, tộc nhím, tộc sư tử, tộc cây leo… Mười hai
con giáp của người Trung Quốc đều là động vật, chúng bắt nguồn từ tín ngưỡng
của cá dân tộc vùng Trung Á và cũng là dấu tích của tín ngưỡng sùng bái vật tổ.
Người Khonds ở Ấn Độ cũng lấy tên động
vật làm tên thị tộc của mình, phân chia bộ lạc gấu, bộ lạc cú, bộ lạc hươu..
Người Dao ở Trung Quốc xem chó là tổ tiên. Người Đột Quyết tự nhận mình là sói.
Tất cả đều là một dạng của tín ngưỡng sùng bái vật tổ.
10-Sùng bái linh vật
Sùng bái linh vật cũng là một
dạng sùng bái vạn vật. Đối tượng của nó là những vật vô sinh nhỏ nhặt như: một
hòn đá nhỏ, một cành cây nhỏ, một cái nón cũ, một miếng vải rách… Chỉ cần người
ta nhìn thấy một vật và trực giác của họ cho rằng nó là linh vật liền đem nó ra
cúng tế và cầu nguyện, có linh nghiệm thì tạ ơn nó, không linh nghiệm thì
thường là vứt bỏ hoặc hủy hoại. Linh vật tuy được sùng bái nhưng nếu không thể
làm người ta toại nguyện thì thường bị người ta ngược đãi, thậm chí đánh đập,
tiêu hủy. Việc như vậy rất thường thấy ở những người da đen.
11- Sùng bái tượng:
Sùng bái ngẫu tượng cũng là một trong những hình thái tôn giáo nguyên
thủy, có thể là tiến hóa từ sùng bái linh vật. Người ta điêu khắc hoặc đắp nặn
tượng của những vật mà họ sùng bái để làm đối tượng thờ phụng. Những vị thần có
uy lực cực mạnh thì thường được tạo tượng cực lớn, họ có mình người nhưng có
thể mang đầu sư tử, chân hưu, cánh chim… Có người xem tượng là bản thân thần
linh, có người xem tượng là chổ thần linh nương nhờ. Người hoang dã phần lớn
tin rằng tượng chính là thần linh, tính chất của niềm tin này giống như tín
ngưỡng sùng bái linh vật.
Việc sùng bái ngẫu tượng sau này đều bị Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo và Hồi
giáo nghiêm cấm. Phật giáo ngay từ đầu cũng đã không sùng bái ngẫu tượng. Tượng
được những người tín ngưỡng sùng bái, nhưng có lúc cũng bị họ trừng phạt. Người
da đen khi không được may mắn liền đem tượng mà mình thờ phụng ra đánh; người
Trung Quốc gặp lúc hạn hán luôn khiêng tượng thần ra ngoài trời bắt tượng phơi
nắng, tăng lữ Bà la môn ở Ấn Độ khi người dân cúng không được nhiều thường dùng
xích sắt trói tay chân tượng lại.
12-Sùng bái người sống:
Sùng bái người sống tức là xem một người còn sống nào đó như thần linh để
sùng bái. Ở New Zealand từng có một tù trưởng tên là Hougi tự xưng mình là
thần. Cựu tổng thống Ghana Kwame Nkrumah, người bị lật đổ vào năm 1966, tự xưng
là Chúa cứu thế. Một vị vua nổi tiếng của đảo Society tên là Tamatoa được nhân
dân tôn là thần. Thiên hoàng của Nhật Bản trước đây cũng từng được người dân
Nhật bản xem như thần thánh. Người da trắng đến xã hội của người hoang dã lần
đầu tiên luôn được họ xem là thần linh. Người da đen Bushmen thì cho rằng người
da trắng là con cháu của thần llnh. Người Congo xem thầy phù thủy là thần đất,
lãnh tụ của các thầy phù thủy được xem
là thần của toàn cõi.
Tín ngưỡng sùng bái người sống này tiến hóa từ tín ngưỡng sùng bái vạn
vật. Vạn vật còn có thể được xem là thần linh, thì những nhân vật đặc biệt đang
còn sống trong xã hội loài người đương nhiên cũng có thể được xem là thần linh.
Jesus tự xưng mình là con trai và cũng là hóa thân của Chúa. Số lượng các lãnh
tụ chính trị hoặc tôn giáo ở Trung Quốc và nhiều nước khác tự khoe mình là con
trời hoặc con thần thực sự là rất nhiều.
13-Sùng bái vong hồn:
Người nguyên thủy cho rằng tất cả mọi vật đều có linh hồn hoặc sinh khí,
con người cũng như vậy. Do đó, sau khi con người chết đi, sức sống sinh khí của
con người vẫn còn và nó sẽ biến thành vong hồn. Trong khi ngủ cơ thể con người
ngưng hoạt động, thế mà có những cảnh mộng xuất hiện, suy ra ngoài thể xác con
người còn có cả linh hồn. Sau khi con người chết đi, linh hồn này trở thành
vong hồn.
Từ “linh hồn” đa phần được dùng với nghĩa “hình bóng” trong rất nhiều thổ
ngữ. Linh hồn là cái bóng của con người, vong hồn xuất hiện cũng là cái bóng
của con người lúc sinh tiền xuất hiện. Có một số người viết tên của kẻ thù lên
tượng gỗ, hoặc dùng giấy cắt thành hình người, viết tên kẻ thù của mình lên đó,
rồi thi triển chú thuật, làm cho kẻ thù gặp nạn, thậm chí bị chết.
Người ta ai cũng có tâm lý mong muốn mình được sống mãi. Đức tin rằng
thân xác bắt buộc phải chết, nhưng linh hồn vẫn luôn tồn tại là một trong những
niềm an ủi vượt bậc mà tôn giáo nguyên thủy dành cho tín đồ của mình.
Con người vì sự hạn chế của nhục thể nên phạm vi hoạt động rất nhỏ hẹp,
linh hồn sau khi chết không còn bị thể xác trói buộc nữa, tự do hơn rất nhiều,
nên có đôi chút thần thông, đây chính là nhân tố dẫn đến việc sùng bái vong
hồn. Người ta thích sùng bái những người và vật có sức mạnh lớn, đồng thời thần
thánh hóa những người và vật đó. Những anh hùng hào kiệt của nhân loại, sau khi
chết đi luôn luôn trở thành đối tượng của tín ngưỡng sùng bái vong hồn. Công
giáo và Hồi giáo tôn thờ những Thánh đồ đã chết của họ. Bên dưới bàn thờ của
mỗi giáo đường Công giáo La Mã đều phải chôn di hài hoặc di vật của các Thánh
đồ. Miếu Khổng Tử, miếu Quan Đế, miếu Ma Tổ… ở Trung Quốc cũng đều là một dạng
của tín ngưỡng sùng bái vong hồn.
14-Sùng bái tổ tiên:
Sùng bái tổ tiên có đồng tính chất với sùng bái vong hồn và là loại sùng
bái vong hồn thịnh hành nhất. Người có tín ngưỡng này cho rằng, người ta ai
cũng có quan hệ mật thiết với con cháu của mình, tuy đã qua đời, nhưng vẫn âm
thầm theo dõi, quan sát hành vi của con cháu,
hoặc là phù hộ, hoặc là trừng phạt. Đây là căn nguyên của tín ngưỡng
sùng bái tổ tiên.
Người Trung Quốc đặc biệt tôn kính tổ tiên, Nho gia nói tôn kính tổ tiên
là để tỏ lòng hiếu thảo, uống nước nhớ nguồn, chứ không phải để sùng bái vong
hồn, vì Khổng Tử lúc còn ở đời không hề nói về những việc trước khi sinh ra và
sau khi chết, có vong hồn hay không, ông chẳng quan tâm đến. Thực ra ngay từ
thời nhà Ân, người Trung Quốc đã sùng bái vong hồn và cho rằng: “người trở lại
làm vong” đây là bằng chứng cho thấy sùng bái vong hồn có trước và khơi nguồn
cho sùng bái tổ tiên. Việc này tuy có quan hệ đến lòng hiếu thảo, nhưng không
chỉ đơn thuần là xuấ phát từ lòng hiếu thảo.
15- Sùng bái tính dục:
Ở trên đã đề cập đến tín ngưỡng sùng bái bộ phận sinh dục, xem bộ phận
sinh dục là vật tượng trưng cho cha trời và mẹ đất. Tiến thêm một bước nữa, từ
sự ngợi ca đối với sức sống của con người, người hoang dã đã xem bộ phận sinh
dục nam và bộ phận sinh dục nữ như là nguồn gốc của sự sống, do đó sinh ra tín
ngưỡng sùng bái tính dục. Bởi thế, Antei Hiyane nói rằng: “sùng bái tính dục
gần như là quá trình tất yếu của sự tiến hóa tôn giáo”. Một nhân tố khác của
sùng bái tính dục là do những cuộc chiến tranh giữa các chủng tộc cổ đại với
nhau, có thắng có bại, có ưu có liệt, làm cho dân số khi ít khi nhiều. Cho nên,
các chủng tộc đều cầu nguyện cho sự sinh sôi của dân số, đối tượng cúng tế của
họ chính là thần tính dục, và bộ phận sinh dục nữ đã trở thành biểu tượng của
một vị thần tính dục được nhân cách hóa. Đặc biệc, hình thức tế tự của tín
ngưỡng này là thực hiện giao hoan giữa người nam và người nữ.
Vì vậy, vào thời cổ đại, ở các nước như Babylon, Hy Lạp, La Mã … thịnh
hành cái gọi là “mại dâm thiêng liêng”, tuy những người bán dâm bị bộ kinh Cựu
Ước của Cơ Đốc giáo sau này chỉ trích là “đại dâm phụ”, nhưng vào thời bấy giờ
người ta không hề cho rằng việc làm của họ là sự dâm loạn xấu xa. Những người
bán dâm ấy đều là những nữ tu sĩ được sùng bái đặc biệt, người đàn ông nào “thọ
giáo” với họ cũng sẽ trở thành người ủng hộ cho tôn giáo của họ.
Trong Ấn Độ giáo, có một giáo phái tên là Saxhta, phái này chủ yếu sùng
bái nữ thần Durga, vợ của thần Shiva. Mật tông Phật giáo về sau chịu ảnh hưởng
của phái này, đề xướng ra Du-già Vô thượng Kim cương thừa tu “Phật mẫu quán”.
Làm việc trai gái. Sự sa đọa của các Lạt ma Hồng giáo Tây Tạng từ đây mà ra, sự
đồi trụy của các Lạt ma đời Nguyên từ
đây mà ra, việc bị các học giả Nhật Bản gọi là Mật giáo tà đạo từ đây mà ra, và
việc bị các học giả Anh quốc gọi là tông Tantra cũng từ đây mà ra. Đài Loan
ngày nay vẫn còn có người tự xưng là thượng sư của Mật thừa, tuyên bố rằng: “
Chúng sanh từ nơi ấy mà đến, vẫn hướng về nơi ấy mà tu” thật chẳng đáng buồn ư
!
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét