Thứ Tư, 2 tháng 11, 2022

GIỚI BỒ TÁT TRONG KINH PHẠM VÕNG VÀ KINH ƯU BÀ TẮC GIỚI

 

GIỚI BỒ TÁT TRONG KINH PHẠM VÕNG
VÀ KINH ƯU BÀ TẮC GIỚI

          Hành trình tu tập của một người xuất gia học Phật, ai cũng phải trải qua giai đoạn thọ giới. Khi còn cư sĩ thì thọ 5 giới, vào chùa xuất gia thọ 10 giới trở thành Sa di hoặc Sa di ni. Hai năm sau được thọ giới Tỳ kheo hay Tỳ kheo Ni ( Ni có thêm giới Thức xoa ) trở thành bậc “ Thiên nhơn chi đạo sư ”. Đây gọi là Thanh văn giới, sau đó người xuất gia phải thọ thêm giới Bồ tát để vừa tu học giải thoát cho bản thân, vừa có thể tập hạnh Bồ tát làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Bồ tát hạnh được nói rất nhiều trong các kinh điển Đại thừa như Kinh Lăng Già, kinh Bảo Tích, kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm … Tuy nhiên đề cập đến giới Bồ tát có các kinh như Bồ tát Anh Lạc bản Nghiệp kinh, Phạm Võng Bố tát Giới Bổn, Du Già Sư Địa Luận Bồ tát Giới Bổn, Bồ tát Trì Địa kinh, Bồ tát Thiện giới kinh, Ưu bà Tắc giới kinh…. Qua đó cho ta thấy Giới Bồ tát không chỉ mang ý nghĩa giới điều, ngăn cấm như giới của hàng Thanh văn, mà còn mang ý nghĩa trách nhiệm, bổn phận, nâng cao lên đó là hạnh của Bồ tát nên làm để cứu độ chúng sanh nhìn từ góc độ giới luật.

           Giới Bồ tát trong kinh Phạm võng và kinh Ưu bà tắc giới. 10 giới trọng và 48 giới khinh của hàng xuất gia và 6 giới trọng và 28 giới khinh. của hàng tại gia như sau :

          - 10 GIỚI TRỌNG CỦA HÀNG XUẤT GIA

1/ Giới sát sanh- 2/ Giới trộm cướp- 3/ Giới Dâm , 4/ Giới vọng ngữ- 5/ Giới bán rượu- 6/ Giới rao nói lỗi của 4 chúng -7/ Giới khen mình chê người – 8/ Giới Bỏn sẻn thêm mắng đuổi- 9/ Giới  hờn giận không nguôi- 10/ Giới hủy báng Tam Bảo.

           -6 GIỚI TRỌNG CỦA HÀNG CƯ SĨ

          1/ Không sát sanh-  2/ Không trộm cắp -   3/   Không nói dối -  4/Không tà dâm -    5/ Không  nói lỗi 4 chúng -   6/ Không bán rượu.

48 GIỚI KHINH BỒ TÁT CỦA HÀNG XUẤT GIA

1/  Giới không kính thầy bạn – 2/ Giới uống rượu- 3/ Giới ăn thịt – 4/ Giới ăn ngũ vị tân- 5/ Giới  không dạy người sám hối- 6/ Giới không cúng dường thính pháp – 7/  Giới không đi nghe pháp- 8/ Giới có tâm trái bỏ Đại thừa- 9/  Giới  không khán bịnh – 10/ Giới chứa khí cụ sát sanh- 11/ Giới đi sứ- 12/ Giới buôn bán phi pháp- 13/ Giới hủy báng – 14/ Giới Phóng hỏa – 15/ Giới dạy giáo lý ngoài Đại thừa- 16/Giới vì lợi mà giảng pháp lộn lạo – 17/ Giới  cậy thế lực quyên tởi – 18/ Giới không thông hiểu mà làm thầy truyền giới – 19/ Giới lưỡng thiệt – 20/ Giới không phóng sanh- 21/ Giới đem sân báo sân, đem đánh trả đánh- 22/ Giới kiêu mạng không thỉnh pháp- 23/ Giới  khinh ngạo không tận tâm dạy- 24/ Giới không học tập Đại thừa – 25/ Giới tri chúng vụng về - 26/ Giới riêng thọ lợi dưỡng – 27/ Giới thọ biệt thỉnh – 28/ Giới biệt thỉnh Tăng- 29/ Giới tà mạng nuôi sống – 30/ Giới quản lý cho bạch y – 31/ Giới không mua chuộc – 32/ Giới tổn hại chúng sanh- 33/ Giới tà nghiệp giác quán – 34/ Giới  tạm bỏ Bồ đề tâm – 35/ Giới không phát nguyện- 36/ Giới không phát thệ- 37/ Giới vào chỗ hiểm nạn – 38/ Giới trái thứ tự tôn ty- 39/ Giới không tu phước huệ - 40/ Giới không bình đẳng truyền giới - 41/ Giới vì lợi làm thầy- 42/ Giới  vì người ác giảng giới- 43/ Giới có móng tâm phạm giới- 44/ Giới không cúng dường kinh luật- 45/ Giới không giáo hóa chúng sanh- 46/ Giới thuyết pháp không đúng pháp – 47/ Giới chế hạn phi pháp- 4/ Giới phá diệt phật pháp.

28 GIỚI KHINH CỦA HÀNG CƯ SĨ :

          1/ Không cúng dường cha, mẹ , thầy  -  2/ Ham mê uống rượu – 3/ Không chăm sóc bệnh -  4/ Có người đến xin không bố thí – 5/ Thấy 4 chúng không tiếp đón- 6/ Thấy 4 chúng phạm giới sinh tâm khinh thường – 7/  Không thọ 8 giới trong  6 ngày trai-  8/  Không đi nghe pháp -  9/ Nhận đồ vật của chúng Tăng -  10/ Uống nước có trùng -  11/ Một mình đến chỗ hiểm nạn -  12/ Người nam qua đêm ở chùa Ni-  13/ Đánh người vì của cải -  14/  Cúng Tăng thức ăn để cách đêm-  15/ Nuôi mèo, chồn-  16/ Nuôi voi, ngựa, trâu, dê. Lạc đà …. 17/ Không sắm y bát cúng chúng Tăng – 18/ Không tìm đất sạch, nước sạch để trồng trọt -  19/ Buôn bán không công bằng -  20/ Hành dâm không đúng thời, chỗ -  21/ Trốn nộp thuế quan -   22 / Vi phạm pháp luật -  23/ Có thức ăn mới không cúng dường – 24/ Chư Tăng không cho vẫn cứ làm -  25/ Không nhường đường chư Tăng – 26/  Phân chia thức ăn cúng Tăng không đều -  27/  Nuôi tằm nhã tơ -  28/  Đi đường gặp người bệnh không quan tâm.

          Giới Bồ tát có ba nhóm thanh tịnh (Tam tụ tịnh giới). Thứ nhất là Nhiếp luật nghi giới, bao gồm các giới trọng và giới khinh.  Thứ hai : Nhiếp thiện pháp giới : Làm tất cả việc lành như Lục độ Ba la mật. Thứ ba : Nhiêu ích hữu tình giới  tức làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.

           Căn cứ theo tính chất của ba nhóm giới Bồ tát có thể nói rằng 48 giới khinh của Bồ tát trong kinh Phạm Võng, thì 30 giới điều được xếp vào nhóm “ Nhiếp thiện pháp giới”,  Giới 31 đến giới 40 xếp vào nhóm “ Nhiếp chúng sanh giới”. Còn 28 giới khinh trong kinh Ưu bà tắc giới phần nhiều thuộc nhóm “ Nhiếp thiện pháp giới”. Điều này có nghĩa rằng giới Bồ tát chú trọng thực hành các điều lành, làm lợi ích chúng sanh.

          10 giới trọng Bồ tát xuất gia và 6 giới trọng Bồ tát của cư sĩ tương đồng với nhau.  48 giới khinh Bồ tát xuất gia và 28 giới khinh Bồ tát tại gia, có một số tương đồng, còn ngoài ra có 35 giới của Bồ tát xuất gia không có trong giới Bồ tát tại gia.

          Bên cạnh đó, giới dâm của Bồ tát xuất gia là đoạn hẳn dâm dục, Bồ tát tại gia thì không được tà dâm, vì có đời sống vợ chồng nhưng phải đúng thời, đúng chỗ. Về vấn đề ăn thịt, Kinh Phạm Võng vì dành cho Bồ tát xuất gia nên “ Không được ăn thịt của mọi loài chúng sanh”, nghĩa là trường chay. Còn kinh Ưu bà tắc giới không thấy quy định rõ về việc này. Điều này có thể suy luận, Bồ tát tại gia nếu trường chay được thì tốt, không trường chay được thì phải ăn chay kỳ. Nguyên nhân có sự chênh lệch đó là do đời sống của người xuất gia khác với người tại gia. Người tại gia còn có trách nhiệm và nghĩa vụ đối với gia đình, xã hội, gia duyên bận rộn không thể dành trọn thời gian và tâm lực để tu tập như người xuất gia. Giới Bồ tát trong kinh Ưu bà tắc Đức Phật chế ra là để cho người tại gia phát tâm Bồ đề dù ở thế tục vẫn có cơ hội thực hành Bồ tát hạnh và tu tập như những người xuất gia.

          Về danh xưng của giới trọng, giới khinh, hai bản trên đều có tên gọi bất đồng. Nói về giới trọng, Kinh Phạm Võng  gọi là “ Ba la di tội”. Ưu bà tắc Kinh gọi 6 điều giới trọng  là “ Lục trọng pháp”.  Về giới khinh, Kinh Phạm Võng gọi là “ Khinh cấu tội”, Kinh Ưu bà tắc gọi là “ Thất ý tội”. Nếu căn cứ trên tinh thần đốn, tiệm mà nói thì Kinh Phạm Võng thuộc loại đốn lập. Kinh Phạm Võng quyển hạ ghi rằng  “ Người thọ Phật giới, không kể là Quốc vương, Vương tử, bá quan, tể tướng, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, 18 cõi Phạm Thiên, Thiên tử 6 tầng trời cõi Dục, thứ dân, huỳnh môn,  dâm nam, dâm nữ, nô tỳ, bát bộ quỷ thần, thần Kim Cang, súc sinh cho đến người biến hóa, hễ hiểu được lời của Pháp sư đều thọ được giới và đều gọi là thanh tịnh thứ nhất ”. Như vậy, một hữu tình bình thường chỉ cần nghe hiểu lời của Pháp sư sẽ được thọ giới và đắc giới, cho nên nói đây là đốn lập.

          Kinh Ưu bà tắc là thuộc tiệm thứ giới. Trước khi thọ giới phải theo thứ tự cúng dường  cha mẹ, sư trưởng, vợ con, hiện tại tri thức, nô tỳ, đạo nhân xuất gia,  và hỏi chín thứ già nạn :   Gia đình có cho phép không,  có thiếu nợ người khác không, thân tâm có bệnh không, có nhiễm ô phạm hạnh không, , có làm tội ngũ nghịch không, có trộm pháp tặc trụ, người huỳnh môn, hai căn,  giết người có tâm đạo, vọng ngữ trước chúng. Nếu phạm một điều thì không được thọ giới.  Trước khi thọ Bồ tát giới ( 6 giới trọng 28 giới khinh ) phải thọ Tam quy Ngũ giới. Tuy đã thọ Ngũ giới, cũng phải trải qua 6 tháng xem xét, rồi ở trong 20 Tỳ kheo làm pháp yết ma để thọ giới. Vì sao phải nghiêm khắc như thế ? Vì : “  Giới Ưu bà tắc này là căn bản của Sa di thập giới,  của Đại Tỳ kheo giới,  Bồ tát giới,  cho đến A Nậu đa la tam miệu tam Bồ đề. Chí tâm thọ trì Ưu bà tắc giới sẽ được vô lượng lợi ích của các giới ấy ”. Điều này mang ý nghĩa thọ Ưu bà tắc giới rồi mới được thọ giới Sa di, Tỳ kheo, Bồ tát.

          SỰ KHÁC NHAU GIỮA GIỚI BỒ TÁT VÀ GIỚI TỲ KHEO.

          Giới Bồ tát thuộc đạo tục thông hành, nghĩa là người xuất gia và tại gia đều được thọ. Còn giới Tỳ kheo chỉ dành riêng cho hàng xuất gia. Giới Bồ tát dành cho tất cả chúng sanh nào nghe hiểu được lời truyền giới của Pháp sư. Còn giới Tỳ kheo chỉ dành riêng cho loài người, đầy đủ 6 căn, không có các bệnh nặng. Giới Bồ tát chú trọng làm lợi ích chúng sanh. Giới Tỳ kheo tập trung tu tập cho bản thân.

          Giới Tỳ kheo “ Tùy phạm chế”, nghĩa là phạm lỗi gì Đức Phật sẽ chế giới đó, dần dần mới đủ giới Tỳ kheo. Giới Bồ tát chế định một lần đủ tất cả các giới. Khi Đức Phật thành đạo, liền chế định giới Bồ tát ngay lúc đó: “ Thuở ấy, Đức Thích Ca Mâu Ni lúc mới thành đạo Vô Thượng Chánh Giác, trong khi ngồi dưới cội Bồ đề, Ngài bắt đầu  kiết  Bồ tát giới ”.

           Giới Tỳ kheo chỉ có một cách thọ giới, giới sư do Tăng chủ trì. Giới Bồ tát có hai cách thọ : tự thệ thọ giới hoặc Pháp sư truyền giới; thỉnh chư Phật, Bồ tát làm Giới sư. Giới Tỳ kheo nếu phạm Ba la di thì không thể sám hối, không được thọ giới lại. Giới Bồ tát khi phạm giới trọng vẫn có thể sám hối cho tiêu tội nhưng  cần phải thấy hảo tướng.

          Giới Tỳ kheo có tác dụng trong một kiếp, khi còn thân người. Giới Bồ tát có tác dụng vô lượng kiếp, dù tái sanh ở đâu, chỉ mất giới thể khi phạm 1 trong 7 tội nghịch hoặc bỏ tâm Bồ đề. Giới Tỳ kheo thuộc về tân đắc, giới Bồ tát thuộc về huân phát. Nghĩa là giới Tỳ kheo phải trải qua nghi thức thọ giới nghiêm ngặt mới đắc giới thể. Giới thể này sau khi thọ giới mới phát sinh, nên gọi là “ tân đắc”. Còn giới Bồ tát là pháp sẵn có của tự tâm  Giới pháp này cũng chính là bổn nguyên của tất cả Phật, bổn nguyên của tất cả Bồ tát và là chủng tử Phật tánh ”.  Giới pháp này mỗi chúng sanh đều có đầy đủ nhưng đời này phải thọ giới Bồ tát là để làm cho giới ấy huân tập và phát triển lớn mạnh hơn, cho nên gọi giới Bồ tát thuộc về “ huân phát ”.

           CÁC ĐIỀU KIỆN THỌ GIỚI BỒ TÁT.

          Đối tượng thọ giới Bồ tát : Đối tượng được thọ giới Bồ tát gồm : Quốc vương, Vương tử, bá quan, tể tướng, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, 18 cõi Phạm Thiên, Thiên tử 6 tầng trời cõi Dục, thứ dân, huỳnh môn,  dâm nam, dâm nữ, nô tỳ, bát bộ quỷ thần, thần Kim Cang, súc sinh cho đến người biến hóa, hễ hiểu được lời của Pháp sư đều thọ được giới và đắc giới.

          Điều kiện thọ giới Bồ tát  :  Điều kiện để được thọ giới Bồ tát là không phạm 1 trong 7 tội nghịch : ác tâm làm thân Phật chảy máu, giết cha, giết mẹ, giết Hòa thượng, giết A xà lê, phá yết ma Tăng, phá pháp luân Tăng, hại bậc Thánh nhân thì mới được thọ giới.

          Cách thức thọ giới  :  có hai cách  để thọ giới Bố tát  : tự nguyện thọ giới và thọ giới với chư Tăng. Nếu trong vòng 1000 dặm mà tìm không có vị Pháp sư truyền giới thì được tự nguyện thọ giới. Nếu Phật tử, sau khi Phật diệt độ, muốn thọ giới Bồ tát thì đối trước tượng Phật, Bồ tát mà tự nguyện thọ giới. Nhưng phải đối trước tượng Phật, Bồ tát mà sám hối cho đến khi nào thấy được hảo tướng mới được thọ giới. Nếu đối trước vị Pháp sư đã thọ giới Bồ tát mà thọ giới thì không cần thấy hảo tướng. Vị Pháp sư ấy là chư sư truyền giới cho nhau, giới tử hết lòng kính trọng cầu giới sẽ được đắc giới.

          Sám hối khi phạm giới Bồ tát  : Nếu có phạm trong mười giới trọng, phải sám hối trước trước tượng Phật, Bồ tát ngày đêm sáu thời tụng giới Bồ tát tha thiết đảnh lễ chư Phật, cho đến khi thấy hảo tướng. Thấy được hảo tướng đó là hiện tượng tội đã tiêu diệt. Nếu người phạm trong 48 giới khinh thì đối thú sám hối thì tội được tiêu diệt.

          Tụng giới Bồ tát : Nếu đến ngày Bố tát, hàng tân học Phật tử, mỗi nữa tháng luôn Bố tát, tụng 10 giới trọng và 48 giới khinh. Lúc tụng giới nên đến trước tượng Phật, Bồ tát mà tụng, chỉ có một người Bố tát thì một người tụng. Nếu hai người, ba người nhẫn đến trăm nghìn người thì cũng  một người tụng, còn bao nhiêu người ngồi lắng nghe. Người tụng ngồi cao, người nghe ngồi thấp. Mỗi người đều đắp y hoại sắc 9 điều, 7 điều, 5 điều. Đây là cách tụng giới theo Kinh Phạm Võng, nếu người tại gia tụng giới Bồ tát cũng như vậy, chỉ khác là y phục chỉ mặc áo tràng cho trang nghiệm vì người tại gia không có y.

          KẾT LUẬN :  Như vậy, qua tìm hiểu hai bản kinh ta thấy : Giới Bồ tát trong kinh Phạm Võng dành cho hàng xuất gia thọ 10 giới trọng và 48 giới khinh. Giới Bồ tát trong kinh Ưu bà tắc giới thì dành cho hàng Bồ tát tại gia tu tập gồm 6 giới trọng và 28 giới khinh. Về căn bản, 6 giới trọng của Bồ tát tại gia tương đương với 10 giới trọng của Bồ tát xuất gia. Về khinh giới Bồ tát xuất gia nhiều hơn Bồ tát tại giao 20 giới. Nguyên do sự sai khác này là do đời sống của người tại gia có nhiều trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình và đất nước, nhiều chướng duyên ràng buộc không thể chuyên tâm thực hành Bồ tát được. Cả hai hạng Bồ tát tuy điểm khởi đầu khác nhau nhưng mục đích cuối cùng là thành tựu quả vị Phật. Vì vậy, trước hết Bồ tát phải phát tâm Bồ đề, thọ giới Bồ tát và thực hành Bồ tát đạo. ./.

  ( Trích  VHPG 1-10- 2022 số 398 – Giới Bồ tát trong Kinh Phạm Võng và Kinh Ưu bà tắc giới – TKN Thích Nữ Huyền Minh )

{]{

GIỚI BỒ TÁT TRONG KINH PHẠM VÕNG VÀ KINH ƯU BÀ TẮC GIỚI Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét