ĐẠO PHẬT THÍCH ỨNG VỚI TÍN NGƯỠNG NHÂN GIAN
Tín ngưỡng dân gian là hành động tôn giáo có liên quan đến phong tục dân
tộc, cũng là hiện tượng tôn giáo mang hình thái nguyên thủy. Từ khi có văn hóa
nhân loại đến nay, tín ngưỡng dân gian đã tồn tại một cách phổ biến trong các
dân tộc. Đây là vì nhân loại cần phải giải tỏa phiền não trong tâm, sự tranh
chấp giữa gia đình và ngoài xã hội, áp lực của hoàn cảnh tự nhiên. Trong một
thời gian ngắn, họ không có cách gì dùng thể năng, trí năng con của người để
giải quyết những vấn đề trên, nên chỉ có cách cầu thần minh chỉ dẫn, giúp đỡ,
cứu tế, bảo hộ. Họ lợi dụng phương thức xin thẻ, bói toán, giáng sinh, cầu hồn,
lên cơ, cúng tế, hứa nguyện, để mong liên lạc cảm thông được với quỷ thần. Hành
vi này, theo nhất thần giáo là mê tín dị đoan và tà thuật. Phật giáo cũng không
có chủ trương có hành vi như vậy. Trong tín ngưỡng dân gian, các loại thần linh
xen tạp với nhau. Từ đời Tống về sau đã có xu thế tam giáo hợp lưu, gồm thâu
thần, tiên, Phật, Bồ Tát vào một nhà. Cuối đời nhà Thanh, đầu năm Dân Quốc đến
nay, cộng thêm thờ cả Gia Tô và Hồi giáo, trở thành tôn giáo dân gian, mà người
ta gọi là ngũ giáo đồng nguyên. Dân gian thông qua linh môi, thuật sĩ, đàn cơ,
cơ đồng, cũng như những đạo cụ như thẻ xăm, đồng âm dương để thỉnh những quỷ
thần vô danh giả xưng là thần gì đó, Phật gì đó.. Giáng sinh. Những quỷ thần
này sẽ chỉ điểm, quyết nghi, thỏa mãn yêu cầu cho dân chúng. Dần dần Phật giáo
cũng mở ra cửa phương tiện, để thích ứng với nhu cầu của tín ngưỡng dân gian.
Điều khác nhau là, Phật giáo dùng lý trí để giải tỏa, quy hướng về chánh pháp,
dùng việc tu thiện tích phước, sám hối tụng kinh, để đạt được mục đích cầu
nguyện. Còn tín ngưỡng dân gian chỉ dùng hành vi mua chuộc thần Thánh để đạt hy
vọng của mình.
Trong tín ngưỡng dân gian coi giáo chủ các tôn giáo khác là thần, nên
cũng sùng bái. Điểm khác nhau là các tôn giáo lớn đều có giáo chủ, giáo sử,
giáo lý, giáo nghi, giáo đoàn truyền thừa. Còn tín ngưỡng dân gian lại lấy đầu
này gom đầu kia, sùng bái mọi thần linh.
Từ sự khảo sát lịch sử văn hóa nhân loại, tín ngưỡng dân gian thuộc hình
thái tôn giáo dân tộc nguyên thủy, lại cần thiết cho nhược điểm thân tâm của
nhân loại. Trong xã hội Âu Mỹ, Cơ Đốc giáo đã gần hai ngàn năm thanh lý đa thần
giáo, thế mà hiện nay vẫn còn dấu vết của tín ngưỡng dân gian hoạt động khắp
nơi. Cho nên theo lập trường Phật giáo, cũng chỉ nên có sự khoan nhượng ở mức
độ thích đáng nào đó. Song nếu vì đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng dân gian mà hạ cấp
tín ngưỡng Phật giáo, thậm chí đưa các loại quỷ thần của tín ngưỡng dân gian
lên thành thần quyền hiện thân của Phật và Bồ Tát, thì sẽ đem lại mệnh vận còn
danh song mất chất cho Phật giáo. Đồng thời cũng bị phê bình và chỉ trích từ
những người trí thức hiểu biết về Phật pháp. Cho chùa Phật giáo không nên tổ
chức để bàn xăm, đàn cơ, đồng âm dương và cũng không nên thờ cúng các tượng
thần địa phương, để tránh bị mang màu sắc tín ngưỡng dân gian, khiến người ta
hiểu lầm Phật giáo sùng bái đa thần, là chỉ lưu của tín ngưỡng dân gian.
Phật giáo làm thế nào để thích ứng với xã hội đại chúng, thỏa mãn nhu cầu
tín ngưỡng dân gian? Phải nên chú trọng đề xướng công năng tín ngưỡng Phật và
Bồ Tát, hoặc xiển dương sự hiệu nghiệm của kinh chú thường dùng. Ví dụ như sự
linh nghiệm có cầu tất ứng, quảng đại vô biên của Quan Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng
Vương Bồ Tát. Quán Thế Âm Bồ Tát được xưng là Quảng Đại Linh Cảm, Cứu khổ Cứu
Nạn, Đại Từ Đại Bi; Phật A Di Đà được xưng là Vô Thượng Y Vương, Vô Lượng Thọ,
Vô Lượng Quang. Những vị Phật và Bồ Tát này khiến người ta có cầu tất ứng, cầu
trường thọ được trường thọ, cầu trí ruệ được trí tuệ. Đức Thích Ca là một trong
trăm ngàn ức hóa thân của Tỳ Lô Giá Na Phật. Ngài là vị giáo chủ cõi Ta bà, đạo
sư của Trời, người, đèn sáng trong đêm dài, thuyền từ nơi bể khổ. Tất cả chư
Phật và đại Bồ Tát đều có đủ sáu loại thần thông, tùy thời, tùy xứ, tùy loại
nhiếp hóa, đáp ứng nhu cầu hợp lý của chúng sanh. Vậy thì mọi người chỉ cần
chọn một vị Phật, Bồ Tát tu niệm, hay một pháp môn, kinh chú nào đó hành trì sẽ
dễ dàng đạt mục đích mà tín ngưỡng dân gian yêu cầu. Huống chi còn có thể tiến
thêm bước nữa, từ tầng bậc tín ngưỡng tôn giáo dân gian, tiến vào cảnh giới
giải thoát tự tại, tự lợi, lợi tha.
Trong Phật giáo có nhiều pháp môn tu với mục đích và tầng bậc khác nhau,
nên có nhiều nghi thức lễ sám và tu tập khác nhau. Nếu y theo mỗi pháp môn tu
tập mà nói, thì khác với sự sùng bái đa thần của tín ngưỡng dân gian. Chỉ có
điều, nếu truy đến ngọn nguồn Phật pháp, thì không có nghi quỹ đa dạng như vậy.
Phật nói vô lượng pháp môn, chỉ cần chọn một trong những pháp môn đó rồi chuyên
tâm tu trì, đều có thể giải thoát tự do
tự tại. Cho nên kinh Hoa Nghiêm có hai mươi lăm pháp môn viên thông, pháp môn
nào cũng bình đẳng với tất cả pháp môn, đầy đủ công dụng của tất cả pháp môn.
Kinh Duy Ma Cật còn khai thị ra pháp môn bất nhị. Nên không có y cứ vào Kinh Phật nào làm tiêu chuẩn tu trì, sẽ
dễ dàng lẫn lộn với tín ngưỡng dân gian, hợp lưu với đa thần giáo, để cho người
ta có ấn tượng thần Phật như nhau.
Nói sâu hơn một mức nữa, là một tín đồ Phật giáo, nếu vì muốn thỏa mãn
những nguyện vọng khác nhau, mà thường thay đổi phương pháp tu hành và đối
tượng sùng bái, thì sẽ mất đi mục tiêu trung tâm. Tín đồ Phật giáo chánh tín,
tín ngưỡng Tam Bảo là học Phật tu pháp. Học Phật là học theo từ bi, trí tuệ của
Ngài. Tu Pháp là theo sự chỉ đạo đúng đắn của chánh pháp, mà chuyên tu một pháp
môn, để thành mục tiêu nhất quán là trì giới, tu định và phát tuệ. Chỉ cần
không lìa nguyên tắc Tam Bảo, ngày ngày lấy việc xem kinh, làm Phật sự, trì
giới, bố thí, lễ tụng, sám hối mà làm thời khóa tu hành, cho dù không cầu lợi
ích hiện đời, cũng tự nhiên chiêu cảm phước lành trong hiện tại.
Trích: Nguồn: thegioiphatgiao vn
(trích: Luật tín ngưỡng tôn giáo- Tìm hiểu về lễ
hội-tín ngưỡng)
Áp dụng: từ 01-01-2018)
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét