TÂM TỪ VÀ LỢI
ÍCH RẢI TÂM TỪ
Nghiên cứu về
tâm từ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về một trong những phương pháp thuần phục, rèn
luyện tâm. Thực tập tâm từ và tứ vô lượng tâm giúp chúng ta tiến gần hơn trên
con đường giải thoát. Vậy tâm từ là gì ?
1-Tâm từ được hiểu qua kinh điển :
Tâm từ được hiểu là không phải sự yêu
thương xác thịt, thân thể, không phân biệt thân sơ mà sự yêu thương bao trùm cả
vạn loại, không bờ bến, không hạn định.
“ Trạng thái cao thượng đầu tiên là tâm từ”, tiếng Pali là Metta,
Sanskrit là Maitri. Tâm từ như là điều kiện hiển nhiên được nhận định dành cho
người xuất gia hay thậm chí cho Phật tử tại gia khi am hiểu giáo lý. Ngay cả với
Đức Thế Tôn, hội chúng cũng cho rằng mục đích Ngài xuất hiện ở đời không vì y
áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, thành bại mà “ với tâm từ, vì lợi tha và do lòng từ , Thế Tôn thuyết pháp ”. Vì vậy
tâm từ của Ngài thúc giục Ngài từ bỏ ngai vàng điện ngọc, địa vị cao sang, dấn
thân vào con đường tu khổ hạnh để tìm đạo giải thoát cứu đời.
Đối với người
tại gia, trong kinh Pháp cú có câu :
“ Với hận thù
diệt hận thù
Đời này không
có được
Không hận
thù, diệt hận thù
Là định luật
ngàn thu.
Từ trong các mối quan hệ hằng ngày, đặc biệt
là gia đình, tâm từ đóng vai trò cấp thiết giúp gia đình hạnh phúc, không bị đổ
vỡ. Mỗi thành viên đều chứa đựng tâm yêu thương lẫn nhau, từ đó dễ dàng tha thứ
lỗi lầm hay những khuyết điểm của nhau. Trong Tăng Chi Bộ Kinh, Đức Phật dạy
các thiếu nữ “ Đối với những người chồng nào, mẹ cha cho các con, vì muốn lợi
ích, vì tìm hạnh phúc, vì lòng thương tưởng, vì lòng từ mẫn khởi lên, đối với vị
ấy, chúng ta sẽ thức dậy trước, chúng ta sẽ đi ngủ sau cùng, vui lòng nhận làm
mọi công việc, xử sự đẹp lòng, lời nói dễ thương”. Trong Tăng Chi Bộ Kinh, Đức
Thế Tôn cũng khen ngợi Samavati là vị trú tâm tối thắng trong các vị đệ tử của
Ngài. Cho thấy Đức Phật rất xem trọng sự tu tập tâm từ trong các hàng đệ tử xuất
gia cũng như tại gia.
Với người xuất gia:
Đức Phật luôn định hướng và đặc biệt
lưu tâm đối với sự thực tập, hành trì của chư vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni về tâm từ
trong đời sống hàng ngày. Khi vị Tỳ kheo buộc tội vị khác trên tinh thần can
gián lẫn nhau, giúp vị kia tốt hơn cũng phải quan sát rằng : “ Ta có an lập từ
tâm, không sân hận đối với các đồng phạm hạnh hay không ? ”. Cho thấy, chỉ có từ
tâm mới khiến chư vị sống trong Tăng đoàn hòa hợp như nước hòa với sữa. Cụ thể
như trường hợp Đức Phật dạy: “ Có hạng người thấp kém về giới, định, tuệ. Hạng
người như vậy, này ác Tỳ kheo, không nên gần gũi, không nên sống chung, không
nên hầu hạ cúng dường, trừ khi vì lòng thương tưởng, vì lòng từ mẫn ”. Khi có
lòng từ, hành giả sẽ nhìn sự việc rộng hơn vì nghĩ rằng không bao lâu nếu vị
này tinh cần tu tập sẽ đạt được thắng trí. Cách để tu tập Thánh đệ tử, hiện
pháp lạc trú, không bị đọa ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chấm dứt khổ
đau, hành giả cần thực hành năm pháp hoàn hảo. Trong năm pháp này, Kinh Trung A
Hàm cũng dạy rõ pháp thứ nhất là người tu phải có tâm từ luôn sẵn sàng đem đến
lợi ích chúng hữu tình, không bao giờ khởi lên ý niệm cũng như hành động thân,
khẩu về các việc giết hại chúng sanh.
2- Đức Phật là hình tượng rõ
nét nhất về rải tâm từ :
Cả cuộc đời Ngài từ khi hoằng truyền
chánh pháp đến lúc nhập Niết-bàn, tâm của Ngài luôn tràn đầy lòng từ bi đối với
chúng sanh. Ngài luôn cân nhắc lời nói khi thuyết giảng. Cụ thể trong kinh,
Ngài nói rõ chỉ giảng những lời như sự
thật, như chân lý, tương ứng với mục đích thì dù người nghe có ưa thích hay
không, Ngài vẫn sẽ giảng thuyết. Điều này được Đức Như Lai khẳng định vì Ngài
có lòng thương tưởng đối với các loài hữu tình. Cho thấy, lòng từ của Ngài rộng
lớn, vô biên, luôn đặt lợi ích an lạc, giải thoát cho chúng sanh lên trên hết.
Điều này giống như hình ảnh minh họa có đứa nhỏ vô tình nuốt vật gì trong miệng,
người cha sẽ tìm mọi cách để đưa tay vào móc ra dù có bị chảy máu, đây vì lòng
thương tưởng đứa trẻ. Cũng vậy, điều Ngài thuyết giảng dù chúng hữu tình không
thích nghe và bực tức, khó chịu nhưng vì lợi ích sau này, Ngài vẫn thuyết.
Với tâm từ bi rộng lớn. Ngài đã cảm
hóa rất nhiều đệ tử hữu duyên xuất gia đến tại gia, đủ các tầng lớp đệ tử khác
nhau trong xã hội, từ vua chúa, quan lại đến giai cấp thấp ngoài xã hội. Điển
hình, đối với Angulimala tướng cướp hung hãn đã quy y Tam bảo xuất gia nương tựa
Ngài. Thế Tôn lại “ nhiếp phục được người
không thể nhiếp phục, làm cho an tịnh được người không thể an tịnh, làm cho tịch
diệt được người không thể tịch diệt ”. Đặc biệt, Ngài đã giáo hóa với tâm từ,
không gậy, kiếm. Lòng từ chan hòa đến khắp nơi mà Ngài du hành đặt chân đến để
giáo hóa, tất cả đều chính do nhờ phước báo tu tập bồ tát hạnh của Ngài, được
ghi chép ở Jataka, chuyện tiền thân Đức Phật trong kinh Tiểu Bộ Kinh.
3- Tâm từ đi cùng với trí tuệ.
Tâm từ vốn là căn bản, nền tảng
trong đời sống hằng ngày. Như trong Kinh Hạt Muối, Đức Phật đã dạy khác nhau giữa
bỏ một nắm muối nghiệp vào trong chén đựng nước hay vào trong sông Hằng, tiêu
biểu cho công đức mình tạo nhiều hay ít mà trở nên mặn hay không mặn, uống được
hay không uống được. Hành giả tu tập ban rải tâm từ càng rộng lớn, phước lành đạt
được cũng lớn dần, dẫn đến muội lược dần nghiệp xấu ác đã tạo trong kiếp này
hay nhiều kiếp trước. Dù pháp môn niệm tâm từ đem đến quả báo lành lớn nhưng
tâm phải luôn có mặt của trí tuệ nếu không chúng ta có thể có những hành động,
ý nghĩa ngược lại với tâm từ. Có những trường hợp cho rằng thực hiện với mục
đích thiện tốt nhưng chỉ đem lại lợi ích cho bản thân hay một số người nào đó,
không phải vì số đông. Hoặc người thực hiện lòng từ đối với người theo tà kiến
ngoại đạo.
Trong cuộc sống, mọi người luôn cần
quân bình giữa lý trí và tình cảm, đó cũng là sự đi đôi giữa trí óc và con tim.
Hành giả cần tuệ tri nhận rõ những vị kỷ, hẹp hòi, nhỏ nhen cần buông bỏ, từ đó
hướng tâm đến muôn loài, vạn vật. Cho nên, đạo Phật luôn được mệnh danh là đạo
từ bi và trí tuệ. Người có trí tuệ sẽ thấy rõ thực tướng các pháp, thấy rõ hiện
tượng vô thường, vô ngã. Họ nhìn nhận các vấn đề theo nhiều phương diện khác
nhau nên không dễ dàng tin những sự việc chỉ thấy, nghe theo phiến diện. Trí tuệ
thật sự khi thấy và hiểu biết với tâm mở rộng, khách quan, không theo cảm tính
bản thân mà theo hiểu biết chơn chánh. Từ những điều này, hành giả thực tập tâm
từ mới đạt lợi ích chân thật, đồng thời có đức tin can đảm, mềm dẻo, chịu đựng.
4- Lợi ích khi tu tập tâm từ
.
Thực hành rải tâm từ mang rất nhiều
lợi ích thiết thực trong cuộc sống hiện tại. Trong Tăng Chi Bộ Kinh VI. Đức Phật đã chỉ ra mười một lợi
ích chuyên hành trì tu tập tâm từ mà sau khi miên mật, tinh cần sẽ đạt được như
: “ ngủ an lạc, thức an lạc, không ác mộng;
được loài người ngưỡng mộ; được phi nhân ái kính; được chư thiên bảo hộ; không
bị lửa, thuốc độc, đao kiếm xúc chạm; được thiền định mau chóng; sắc mặt tươi sáng; khi mệnh chung không hôn
ám; nếu chưa thể nhập thượng pháp được sanh lên phạm thiên giới ”. Tâm từ là một trong những yếu tố thuộc các
pháp tác thành hạnh Sa môn. Là vị Sa môn chân chánh như thật, hành giả phải thọ
trì và thực hành như giới hạnh, chánh niệm trong các căn, tiết chế tri túc
trong ăn uống, luôn phòng hộ tâm, tỉnh thức giác ngộ trong từng sát na, đoạn trừ
các triền cái, bốn tầng thiền na, ba minh, bậc A La Hán. Trong các pháp đoạn trừ
các triền cái, hành giả phải từ bỏ sân hận, sống với lòng từ mẫn, thương xót với
tất cả chúng hữu tình, dần gột rửa hết sân hận. Nhờ đạt được tâm từ mẫn, không
còn sân hận, hành giả dễ dàng đoạn trừ dần những pháp triền cái khác tiến nhanh
trên lộ trình tu tập. Từ đó, hành giả thọ nhận đồ cúng dường như thực phẩm, y
phục, dược phẩm …mới có kết quả, phước báu lớn cho chúng ta và người dâng cúng.
Ngoài ra chính tâm từ cũng là nhân
duyên tác động đến nghiệp quyết định nơi tái sinh thiện thú hay ác thú sau khi
thân hoại mạng chung hay người liệt, kẻ ưu trong đời sau. Điều này được Đức Phật
dạy người tu tập phải từ bỏ và tránh sát sanh, bỏ đao, gậy, kiếm, đồng thời phải
biết tàm quý và đặc biệt phải có lòng từ, sống thương yêu, nghĩ đến hạnh phúc
cho cả ba giới bốn loài, đặc biệt là chúng hữu tình. Đức Phật nhấn mạnh : “ Nếu có người thực hành từ tâm giải thoát rộng
lớn vô lượng, khéo tu tập như vậy, chắc chắn chứng quả A na hàm, hoặc chứng quả
cao hơn nữa ” Từ đó, hành giả tu Phật nên lưu tâm đến sự tu tập, hành trì
miên mật tâm từ để đạt được quả Thánh, vì công năng tâm từ rất lớn, định hướng
rõ con đường cần hướng đến của người tu theo Phật. Qua Kinh Du Hành, người học
Phật hiểu hơn về sáu pháp bất thối pháp khiến cho Phật pháp hưng thịnh, trường
tồn hơn, trong đó có ba pháp vận dụng tâm từ. Đó là thân phải luôn hành động, ứng
xử một cách từ ái, không bao giờ có ý niệm gây tổn hại chúng sanh, miệng nói lời
ái ngữ, không bao giờ phát ra lời ác độc, ý luôn niệm niệm gắn với từ tâm. Do vậy,
hành giả càng chú trọng hơn về thân, khẩu, ý trong tu tập để khiến cho chánh
pháp ngày càng trường tồn và đặc biệt luôn phát khởi và giữ gìn tâm từ trong ba
nghiệp. Chánh pháp có cửu trụ ở Ta bà hay không chính do mỗi cá nhân quyết định.
Đức Phật cũng giảng về phước báu thù thắng sẽ đến với chính người hành trì khi
chuyên tâm hành từ tâm. Người ấy, trong khoảnh khắc thời gian một mũi tên bắn
đi, sẽ được sanh đến cõi Phạm Thiên. Ở bản kinh khác, Đức Thế Tôn cũng dạy
tương tự, đó là hành giả đạt được phước tối thắng khi nghĩ nhớ chúng sanh với
tâm từ với khoảnh khắc vắt sữa bò. Song song với lợi ích thực tập tâm từ, Đức
Phật cũng nhấn mạnh trong Trường A hàm, Kinh Tam Tụ về một pháp đưa đến cõi ác
thú, đó là do tâm chưa bao giờ có nhân từ và chỉ luôn ôm ấp tâm niệm độc hại.
Con người khi không có lòng từ, tình yêu thương đến đồng loại là con đường dễ
nhất thẳng đến ác thú, ba cõi cõi.
5 Điều kiện để hành trì tu tập
tâm từ bi.
Để phát triển và hành trì miên mật
tâm từ, hành giả cần dung hòa giữa từ bi và trí tuệ. Cần hiểu theo trí tuệ rồi
mới thương bằng lòng từ. Hành giả cũng cần hiểu rõ bản thân về khả năng và năng
lực chính mình, đồng thời đi đôi với điều này, người tu tập cũng cần am tường
điểm yếu của mình. Đôi khi vì quá thương người theo cảm tính, dần dần hành giả
đẩy người được giúp đỡ luôn dựa dẫm, không tự mình vươn lên và ngày càng nhiều
những người chuyên sống dựa vào người khác, trong khi mình vẫn có khả năng.
Con đường tu tập tâm từ luôn phải
song hành cùng tinh thần phụng sự, độ tha nếu không hành giả trở thành người
nhu nhược yếu đuối lấy từ bi che chắn khi đối diện với chướng duyên. Tùy từng
người tu mà có những cấp từ bi khác nhau. Tâm chưa đủ rộng lớn, bao dung thì
không nên ngượng ép, điều này không đem đến lợi ích mà ngược lại tạo nên áp lực
nặng nề lên chính mình. Vì vậy, mỗi hành giả cần luyện tập từng giờ, từng phút,
từng ý niệm đến mỗi câu nói hành động đều toát lên từ bi, trí tuệ. Dù biết từ
bi luôn có sẵn trong tâm mỗi người, nhất là ai đã hướng đến con đường Thánh vị
nhưng khi bắt đầu hành trì, áp dụng trong cuộc sống đòi hỏi nhiều thử thách.
Chúng ta trên cuộc này đều có biệt nghiệp riêng, người hành trì và những người
được hướng đến đều bị chi phối ít nhiều, để khiến họ thay đổi hành động của họ
là điều không hề đơn giản khi họ chưa thực sự muốn đổi. Tâm từ bi của người
hành trì có thể đạt đến mức độ nào đó nhưng không thể sánh như Đức Phật, người
đã đạt cảnh giới cao tột. Khi không nhận định điều này, chúng ta dễ nhầm lẫn và
dẫn đến rơi vào ảo tưởng. Để đạt được như Đức Phật cần nhiều yếu tố. Điển hình,
khi đã có tâm từ nhưng điều quan trọng không thể thiếu đó chính là năng lực duy
trì năng lượng từ bi đó không ngằn mé, không điều kiện vụ lợi, vượt không gian,
thời gian, không thoái thất tâm ban đầu, điều này không hề đơn giản. Điều cần
nhận rõ rằng chính bản thân chúng ta vẫn còn nhiều chướng ngại, niệm chấp thân
ta, người thân thuộc, người ghét ta, người ta không thương vẫn luôn hiện hữu
trong ý niệm khởi lên. Khi rải tâm từ luôn đòi hỏi phải giữ tâm Bồ đề, hai điều
này phải luôn song hành, nếu không sự việc trở nên vô nghĩa.
Điều kiện không thể thiếu khi hành
tâm từ đó là tâm bi, tâm hỷ và tâm xả tức là kết hợp Tứ vô lượng tâm. Sự kết hợp
này mới đem đến kết quả tốt đẹp trong các trường hợp trong cuộc sống khi rải
tâm từ. Đức Thế Tôn dạy: “ Với phương tiện
nào chúng ta thỉnh thoảng đạt được và an trú hỷ do viễn ly sanh ”. Tâm tùy
hỷ, vô cầu, vui với thành công người khác, hoan hỷ chơn chánh, không phải vì
tài vật, đau khổ người khác hay tự cao về chiến thắng của mình. Niềm hoan hỷ
sâu lắng, tận đáy lòng với thành tựu từ tu tập tâm từ cộng với niệm xả không
còn vướng mắc. Khi còn những niệm chúng sanh trong tâm, thật khó thoát khỏi tam
độc (tham, sân, si) chi phối khiến tâm ta không chỉ bị kẹt vào các niệm triền
cái như nghi, mạn, kiêu mạn mà còn vướng chấp vào phước thiện đạt được do công
phu, tu tập, kết quả đạt được do rải tâm từ. “ Hoan hỷ chỉ có đến/ Với người tâm không sầu muộn/ Sầu muộn chỉ có đến/
Với người tâm không hoan hỷ…”. Hành giả sống với niệm xả, không ôm ấp những
hoan hỷ hay sầu muộn, cũng không hoài tưởng quá khứ, mơ tưởng tương lai. Chính
tâm xả góp phần thành tựu tâm từ, chánh niệm, tỉnh giác, hiện tại lạc trú. Tứ
vô lượng tâm từ, bi, hỷ, xả là những tố chất căn bản tạo nên phẩm hạnh người tu
Phật.
Kết luận :
Rải tâm từ cũng là phương pháp tu tập, pháp môn hành trì của người con
Phật, đặc biệt là hàng xuất gia. Đức Phật giảng dạy :” Vị ấy an trú, biến mãn một
phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba,
cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên dưới bề ngang, hết thảy
phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ,
quảng đại, vô biên, không hận, không sân ”. Sau khi giảng về phương pháp tu tâm
từ, Đức Phật cũng giảng tương tự như vậy với tâm bi, tâm hỷ, tâm xả. Nhờ bốn
tâm này kết hợp với nhau, sự tu tập dễ dàng thăng tiến, Bồ đề tâm ngày càng quảng
đại, rộng lớn, muội lược tham, sân, si.
Tu tập tâm từ đối với người thân,
người ta kính mến, sau đó hành giả thực tập rải tâm này hướng đến những người
khác, đến với chúng sanh, muôn loài. Dựa vào công phu chuyên nhất, huân tập
trong từng sát na qua thân, khẩu, ý, từ đó mở rộng từ tâm, yêu thương, không
sân hận để chuyển hóa hữu tình có duyên với chúng ta. Năng lực có được nhờ tâm
từ rộng lớn có thể chuyển hóa chính người tu tập và cả chúng hữu tình được hướng
đến, điều này hoàn toàn tương ứng với thuyết nhân quả nghiệp báo trong Phật
giáo. Những nghiệp bất thiện mà chúng ta đã gây ra hay nghiệp bất thiện do mỗi
chúng hữu tình đã gây tạo sẽ muội lược dần vì nghiệp báo vốn không phải là định
mệnh. Do đó, công đức, phước báu nhờ ban rải tâm từ, mở rộng yêu thương, niệm
lành có thể chuyển các nghiệp đã tạo theo hướng tốt hơn. Tâm từ luôn có mặt hiện
hữu đối với chư Phật, Bồ tát và từ bi cũng chính là nguồn cội của các pháp lành
cần tu tập đối với tất cả đệ tử phật dù là xuất gia hay tại gia. Giữ tâm luôn
an vui, không cho khởi lên những niệm sân, hành giả rải tâm từ đến người khác
ngay cả người ác ý với mình. Khi chính ta có tâm từ bi mới ban rải đến người
khác và như vậy họ mới cảm nhận được và chuyển hóa.
Trích
VHPG : 1-1-2022- số 381- Về Tâm từ và rải
tâm từ : SC Thích Nữ Trung Tâm.
Tóm tắt bài tâm từ
(
Thực hiện tâm từ có nhiều cách : Như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, cúng dường,
làm từ thiện, phục vụ… niệm Phật, tụng kinh , trì chú , nghe pháp, tọa thiền v
.v. có sự có lý, sự lý đi đôi năng lượng
càng nhiều và lớn mạnh … )
lợi ích chuyên cần hành trì
tu tập tâm từ mà sau khi miên mật, tinh cần sẽ đạt được như : “ ngủ an lạc, thức an lạc, không ác mộng; được
loài người ngưỡng mộ; được phi nhân ái kính;( Đức trọng quỷ thần
kinh ) được chư thiên bảo hộ; không bị lửa,
thuốc độc, đao kiếm xúc chạm; được thiền định mau chóng; sắc mặt tươi sáng; khi mệnh chung không hôn
ám; nếu chưa thể nhập thượng pháp được sanh lên phạm thiên giới ”. Tâm từ là một trong những yếu tố thuộc các
pháp tác thành hạnh Sa môn. Là vị Sa môn chân chánh như thật, hành giả phải thọ
trì và thực hành như giới hạnh, chánh niệm trong các căn, tiết chế tri túc
trong ăn uống, luôn phòng hộ tâm, tỉnh thức giác ngộ trong từng sát na, đoạn trừ
các triền cái, bốn tầng thiền na, ba minh, bậc A La Hán. ( Tam minh: Túc mạng minh, thiên nhãn minh và
lậu tận minh . 1/ Túc mạng minh: Biết được sự sống của mình và chúng
sanh, từ nhiều đời kiếp trước 2/ Thiên
nhãn minh : thấy rõ sự tái sanh của con người và chúng sanh về sự nhân quả
và luân hồi của con người và động vật trong tương lai. Từ đâu sanh ra chết đi về
đâu . 3/ Lậu tận minh : thấy rõ biểu hiện sanh tử khổ đau và nguyên nhân
gây tạo ra khổ đau là tham ái, sự si mê chấp thủ. Và phương pháp diệt trừ khổ
đau ra khỏi sanh tử luân hồi.)
Đức Phật đã dùng năng lượng tâm từ
mà vượt qua các khó khăn trở ngại trên đường tu chứng và hành đạo. Sau khi thành đạo dùng năng lượng từ tâm mà
Phật đã hàng phục được những kẻ ác, các phái ngoại đạo quy hàng làm đệ tử Phật,
từ trên vua quan đến các thứ dân, các nhà trưởng giả, các nhà tri thức, các người
dân giai cấp thấp đều nương từ tâm của Phật mà được chuyển hóa cuộc đời họ.
Từ đó về sau khi Phật nhập diệt
tinh thần ứng dụng năng lượng từ tâm được các hàng đệ tử Phật tiếp tục phát huy
và ứng dụng trong sự tu tập khiến cho Phật pháp được phát triển mạnh mẽ và lâu
dài. Nói đến đạo Phật là nói đến từ bi, là người xuất gia hay tại gia không thể
không thực hành hạnh từ bi . Nếu không có hạnh từ bi thì xem như không phải đệ
tử của Phật.
Nhờ ứng dụng từ bi trong sự tu tập
mà phiền não tham, sân, si được giảm dần. Muốn tham, sân, si được giảm nhẹ thì
phải thực hành hạnh từ bi, muốn tu tập thăng tiến thì phải thực hành hạnh từ
bi. Hạnh từ bi không những ban trải đến con người mà còn rải tâm từ đến các loại
động vật sinh vật nữa. Hạnh từ bi không chỉ đối với con người mà hướng đến cỏ
cây hoa lá, các loài cầm thú, sinh vật lớn hoặc nhỏ, hạnh từ bi đều hướng đến bảo
vệ và thương yêu mọi loài, mọi chúng sanh.
Tâm từ bi xóa bỏ được hận thù, giảm
nhẹ nghiệp chướng đời này và các đời trước, thay đổi tâm tính kẻ hung bạo thành
hiền lương đạo đức đem lại sự bình an cho gia đình và xã hội. Điển hình như tướng
cướp Lê Lam người quê quán Quảng Trị. Bắt đầu ăn cắp từ tuổi còn nhỏ lần lớn
lên thành tướng cướp nổi tiếng từ trong nước ra đến ngoài nước. Một con người
đã từng vào tù ra tội không biết bao nhiêu lần, luật pháp nhà nước răn đe đủ mọi
hình thức, nhưng ra tù rồi tánh nào tật đó không thay đổi. Nhưng đến với đạo Phật
ông thay đổi một cách dứt khoát và mau lẹ.
Tâm từ làm cho xã hội an vui thế
giới hòa bình nhân dân an lạc, tâm từ xóa bỏ hận thù kết nối tình yêu thương,
làm cho mọi việc từ xấu trở nên tốt. Tâm từ thay đổi kẻ hung bạo, không cần dao
kiếm, gậy gộc, hay sức mạnh mà thay đổi được đối phương bỏ ác làm lành.
Tâm từ thay đổi nghiệp chướng của
mình và người khác, tâm từ định hướng cho cuộc sống tốt đẹp ở hiện tại và nhiều
kiếp mai sau. Tâm từ thay đổi được vận mệnh. Tâm từ giúp cho sự tu tập mau
thăng tiến, trí tuệ phát sanh, giới thể thanh tịnh, tu mau giải thoát, ra khỏi
phiền não, giữ được ba nghiệp thanh tịnh.
Tâm từ giúp cho sự nghiệp phát triển
lâu bền, mọi việc thành công ít khi gặp thất bại, Tâm từ được nhiều người mến mộ,
Tâm từ cũng cảm hóa được các loài động vật ăn thịt như hỗ, báo, sư tử, cá sấu v.v trở thành người bạn thân thiết. Điển hình
như đức Phật đã từng cảm hóa voi dữ ngựa hung v.v… và thời hiện tại các nhà
nuôi thú dữ như sư tử, cọp, chó sói, cá sấu, trăng v.v …cũng dùng tâm từ mà cảm
hóa thành những con vật thuần lương thân thiện..
Như vậy tâm từ có sẵn trong mỗi
người và mỗi loài động vật, biến ác thành hiền, chuyển hung dữ thành hiền lương
đạo đức. Nhưng tâm từ ở đỉnh cao chỉ có ở chư Phật và Bồ tát, các vị tu hành đắc
đạo mới có thể ban trải cùng khắp cả trong sáu loài chúng sanh, thay đổi được
vũ trụ thời tiết . Còn tâm từ của người bình thường chỉ cảm hóa giới hạn trong
một phạm vi nhỏ, và đối với một số người một số động vật, trừ khi tu tập chứng
đắc được tự tánh, chân lý vũ trụ thì tâm từ mới rộng mở cao hơn.
( soạn : 20/01/ 2022 )
0 nhận xét:
Đăng nhận xét