Thứ Năm, 3 tháng 11, 2022

TÂM TỪ VÀ LỢI ÍCH RẢI TÂM TỪ

 

TÂM TỪ VÀ LỢI  ÍCH RẢI TÂM TỪ

          Nghiên cứu về tâm từ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về một trong những phương pháp thuần phục, rèn luyện tâm. Thực tập tâm từ và tứ vô lượng tâm giúp chúng ta tiến gần hơn trên con đường giải thoát. Vậy tâm từ là gì ?

1-Tâm từ được hiểu qua kinh điển :

          Tâm từ được hiểu là không phải sự yêu thương xác thịt, thân thể, không phân biệt thân sơ mà sự yêu thương bao trùm cả vạn loại, không bờ bến, không hạn định.  “ Trạng thái cao thượng đầu tiên là tâm từ”, tiếng Pali là Metta, Sanskrit là Maitri. Tâm từ như là điều kiện hiển nhiên được nhận định dành cho người xuất gia hay thậm chí cho Phật tử tại gia khi am hiểu giáo lý. Ngay cả với Đức Thế Tôn, hội chúng cũng cho rằng mục đích Ngài xuất hiện ở đời không vì y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, thành bại mà “ với tâm từ, vì lợi tha và do lòng từ , Thế Tôn thuyết pháp ”. Vì vậy tâm từ của Ngài thúc giục Ngài từ bỏ ngai vàng điện ngọc, địa vị cao sang, dấn thân vào con đường tu khổ hạnh để tìm đạo giải thoát cứu đời.

          Đối với người tại gia, trong kinh Pháp cú có câu :

          “ Với hận thù diệt hận thù

          Đời này không có được

          Không hận thù, diệt hận thù

          Là định luật ngàn thu.

 Từ trong các mối quan hệ hằng ngày, đặc biệt là gia đình, tâm từ đóng vai trò cấp thiết giúp gia đình hạnh phúc, không bị đổ vỡ. Mỗi thành viên đều chứa đựng tâm yêu thương lẫn nhau, từ đó dễ dàng tha thứ lỗi lầm hay những khuyết điểm của nhau. Trong Tăng Chi Bộ Kinh, Đức Phật dạy các thiếu nữ “ Đối với những người chồng nào, mẹ cha cho các con, vì muốn lợi ích, vì tìm hạnh phúc, vì lòng thương tưởng, vì lòng từ mẫn khởi lên, đối với vị ấy, chúng ta sẽ thức dậy trước, chúng ta sẽ đi ngủ sau cùng, vui lòng nhận làm mọi công việc, xử sự đẹp lòng, lời nói dễ thương”. Trong Tăng Chi Bộ Kinh, Đức Thế Tôn cũng khen ngợi Samavati là vị trú tâm tối thắng trong các vị đệ tử của Ngài. Cho thấy Đức Phật rất xem trọng sự tu tập tâm từ trong các hàng đệ tử xuất gia cũng như tại gia.

Với người xuất gia:

Đức Phật luôn định hướng và đặc biệt lưu tâm đối với sự thực tập, hành trì của chư vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni về tâm từ trong đời sống hàng ngày. Khi vị Tỳ kheo buộc tội vị khác trên tinh thần can gián lẫn nhau, giúp vị kia tốt hơn cũng phải quan sát rằng : “ Ta có an lập từ tâm, không sân hận đối với các đồng phạm hạnh hay không ? ”. Cho thấy, chỉ có từ tâm mới khiến chư vị sống trong Tăng đoàn hòa hợp như nước hòa với sữa. Cụ thể như trường hợp Đức Phật dạy: “ Có hạng người thấp kém về giới, định, tuệ. Hạng người như vậy, này ác Tỳ kheo, không nên gần gũi, không nên sống chung, không nên hầu hạ cúng dường, trừ khi vì lòng thương tưởng, vì lòng từ mẫn ”. Khi có lòng từ, hành giả sẽ nhìn sự việc rộng hơn vì nghĩ rằng không bao lâu nếu vị này tinh cần tu tập sẽ đạt được thắng trí. Cách để tu tập Thánh đệ tử, hiện pháp lạc trú, không bị đọa ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chấm dứt khổ đau, hành giả cần thực hành năm pháp hoàn hảo. Trong năm pháp này, Kinh Trung A Hàm cũng dạy rõ pháp thứ nhất là người tu phải có tâm từ luôn sẵn sàng đem đến lợi ích chúng hữu tình, không bao giờ khởi lên ý niệm cũng như hành động thân, khẩu về các việc giết hại chúng sanh.

2- Đức Phật là hình tượng rõ nét nhất về rải tâm từ :

Cả cuộc đời Ngài từ khi hoằng truyền chánh pháp đến lúc nhập Niết-bàn, tâm của Ngài luôn tràn đầy lòng từ bi đối với chúng sanh. Ngài luôn cân nhắc lời nói khi thuyết giảng. Cụ thể trong kinh, Ngài nói rõ chỉ  giảng những lời như sự thật, như chân lý, tương ứng với mục đích thì dù người nghe có ưa thích hay không, Ngài vẫn sẽ giảng thuyết. Điều này được Đức Như Lai khẳng định vì Ngài có lòng thương tưởng đối với các loài hữu tình. Cho thấy, lòng từ của Ngài rộng lớn, vô biên, luôn đặt lợi ích an lạc, giải thoát cho chúng sanh lên trên hết. Điều này giống như hình ảnh minh họa có đứa nhỏ vô tình nuốt vật gì trong miệng, người cha sẽ tìm mọi cách để đưa tay vào móc ra dù có bị chảy máu, đây vì lòng thương tưởng đứa trẻ. Cũng vậy, điều Ngài thuyết giảng dù chúng hữu tình không thích nghe và bực tức, khó chịu nhưng vì lợi ích sau này, Ngài vẫn thuyết.

Với tâm từ bi rộng lớn. Ngài đã cảm hóa rất nhiều đệ tử hữu duyên xuất gia đến tại gia, đủ các tầng lớp đệ tử khác nhau trong xã hội, từ vua chúa, quan lại đến giai cấp thấp ngoài xã hội. Điển hình, đối với Angulimala tướng cướp hung hãn đã quy y Tam bảo xuất gia nương tựa Ngài. Thế Tôn lại “ nhiếp phục được người không thể nhiếp phục, làm cho an tịnh được người không thể an tịnh, làm cho tịch diệt được người không thể tịch diệt ”. Đặc biệt, Ngài đã giáo hóa với tâm từ, không gậy, kiếm. Lòng từ chan hòa đến khắp nơi mà Ngài du hành đặt chân đến để giáo hóa, tất cả đều chính do nhờ phước báo tu tập bồ tát hạnh của Ngài, được ghi chép ở Jataka, chuyện tiền thân Đức Phật trong kinh Tiểu Bộ Kinh.

3- Tâm từ đi cùng với trí tuệ.

Tâm từ vốn là căn bản, nền tảng trong đời sống hằng ngày. Như trong Kinh Hạt Muối, Đức Phật đã dạy khác nhau giữa bỏ một nắm muối nghiệp vào trong chén đựng nước hay vào trong sông Hằng, tiêu biểu cho công đức mình tạo nhiều hay ít mà trở nên mặn hay không mặn, uống được hay không uống được. Hành giả tu tập ban rải tâm từ càng rộng lớn, phước lành đạt được cũng lớn dần, dẫn đến muội lược dần nghiệp xấu ác đã tạo trong kiếp này hay nhiều kiếp trước. Dù pháp môn niệm tâm từ đem đến quả báo lành lớn nhưng tâm phải luôn có mặt của trí tuệ nếu không chúng ta có thể có những hành động, ý nghĩa ngược lại với tâm từ. Có những trường hợp cho rằng thực hiện với mục đích thiện tốt nhưng chỉ đem lại lợi ích cho bản thân hay một số người nào đó, không phải vì số đông. Hoặc người thực hiện lòng từ đối với người theo tà kiến ngoại đạo.

Trong cuộc sống, mọi người luôn cần quân bình giữa lý trí và tình cảm, đó cũng là sự đi đôi giữa trí óc và con tim. Hành giả cần tuệ tri nhận rõ những vị kỷ, hẹp hòi, nhỏ nhen cần buông bỏ, từ đó hướng tâm đến muôn loài, vạn vật. Cho nên, đạo Phật luôn được mệnh danh là đạo từ bi và trí tuệ. Người có trí tuệ sẽ thấy rõ thực tướng các pháp, thấy rõ hiện tượng vô thường, vô ngã. Họ nhìn nhận các vấn đề theo nhiều phương diện khác nhau nên không dễ dàng tin những sự việc chỉ thấy, nghe theo phiến diện. Trí tuệ thật sự khi thấy và hiểu biết với tâm mở rộng, khách quan, không theo cảm tính bản thân mà theo hiểu biết chơn chánh. Từ những điều này, hành giả thực tập tâm từ mới đạt lợi ích chân thật, đồng thời có đức tin can đảm, mềm dẻo, chịu đựng.

4- Lợi ích khi tu tập tâm từ .

Thực hành rải tâm từ mang rất nhiều lợi ích thiết thực trong cuộc sống hiện tại. Trong Tăng Chi Bộ Kinh VI. Đức Phật đã chỉ ra mười một lợi ích chuyên hành trì tu tập tâm từ mà sau khi miên mật, tinh cần sẽ đạt được như : “ ngủ an lạc, thức an lạc, không ác mộng; được loài người ngưỡng mộ; được phi nhân ái kính; được chư thiên bảo hộ; không bị lửa, thuốc độc, đao kiếm xúc chạm; được thiền định mau chóng;  sắc mặt tươi sáng; khi mệnh chung không hôn ám; nếu chưa thể nhập thượng pháp được sanh lên phạm thiên giới ”.  Tâm từ là một trong những yếu tố thuộc các pháp tác thành hạnh Sa môn. Là vị Sa môn chân chánh như thật, hành giả phải thọ trì và thực hành như giới hạnh, chánh niệm trong các căn, tiết chế tri túc trong ăn uống, luôn phòng hộ tâm, tỉnh thức giác ngộ trong từng sát na, đoạn trừ các triền cái, bốn tầng thiền na, ba minh, bậc A La Hán. Trong các pháp đoạn trừ các triền cái, hành giả phải từ bỏ sân hận, sống với lòng từ mẫn, thương xót với tất cả chúng hữu tình, dần gột rửa hết sân hận. Nhờ đạt được tâm từ mẫn, không còn sân hận, hành giả dễ dàng đoạn trừ dần những pháp triền cái khác tiến nhanh trên lộ trình tu tập. Từ đó, hành giả thọ nhận đồ cúng dường như thực phẩm, y phục, dược phẩm …mới có kết quả, phước báu lớn cho chúng ta và người dâng cúng.

Ngoài ra chính tâm từ cũng là nhân duyên tác động đến nghiệp quyết định nơi tái sinh thiện thú hay ác thú sau khi thân hoại mạng chung hay người liệt, kẻ ưu trong đời sau. Điều này được Đức Phật dạy người tu tập phải từ bỏ và tránh sát sanh, bỏ đao, gậy, kiếm, đồng thời phải biết tàm quý và đặc biệt phải có lòng từ, sống thương yêu, nghĩ đến hạnh phúc cho cả ba giới bốn loài, đặc biệt là chúng hữu tình. Đức Phật nhấn mạnh : “ Nếu có người thực hành từ tâm giải thoát rộng lớn vô lượng, khéo tu tập như vậy, chắc chắn chứng quả A na hàm, hoặc chứng quả cao hơn nữa ” Từ đó, hành giả tu Phật nên lưu tâm đến sự tu tập, hành trì miên mật tâm từ để đạt được quả Thánh, vì công năng tâm từ rất lớn, định hướng rõ con đường cần hướng đến của người tu theo Phật. Qua Kinh Du Hành, người học Phật hiểu hơn về sáu pháp bất thối pháp khiến cho Phật pháp hưng thịnh, trường tồn hơn, trong đó có ba pháp vận dụng tâm từ. Đó là thân phải luôn hành động, ứng xử một cách từ ái, không bao giờ có ý niệm gây tổn hại chúng sanh, miệng nói lời ái ngữ, không bao giờ phát ra lời ác độc, ý luôn niệm niệm gắn với từ tâm. Do vậy, hành giả càng chú trọng hơn về thân, khẩu, ý trong tu tập để khiến cho chánh pháp ngày càng trường tồn và đặc biệt luôn phát khởi và giữ gìn tâm từ trong ba nghiệp. Chánh pháp có cửu trụ ở Ta bà hay không chính do mỗi cá nhân quyết định. Đức Phật cũng giảng về phước báu thù thắng sẽ đến với chính người hành trì khi chuyên tâm hành từ tâm. Người ấy, trong khoảnh khắc thời gian một mũi tên bắn đi, sẽ được sanh đến cõi Phạm Thiên. Ở bản kinh khác, Đức Thế Tôn cũng dạy tương tự, đó là hành giả đạt được phước tối thắng khi nghĩ nhớ chúng sanh với tâm từ với khoảnh khắc vắt sữa bò. Song song với lợi ích thực tập tâm từ, Đức Phật cũng nhấn mạnh trong Trường A hàm, Kinh Tam Tụ về một pháp đưa đến cõi ác thú, đó là do tâm chưa bao giờ có nhân từ và chỉ luôn ôm ấp tâm niệm độc hại. Con người khi không có lòng từ, tình yêu thương đến đồng loại là con đường dễ nhất thẳng đến ác thú, ba cõi cõi.

5 Điều kiện để hành trì tu tập tâm từ bi.

Để phát triển và hành trì miên mật tâm từ, hành giả cần dung hòa giữa từ bi và trí tuệ. Cần hiểu theo trí tuệ rồi mới thương bằng lòng từ. Hành giả cũng cần hiểu rõ bản thân về khả năng và năng lực chính mình, đồng thời đi đôi với điều này, người tu tập cũng cần am tường điểm yếu của mình. Đôi khi vì quá thương người theo cảm tính, dần dần hành giả đẩy người được giúp đỡ luôn dựa dẫm, không tự mình vươn lên và ngày càng nhiều những người chuyên sống dựa vào người khác, trong khi mình vẫn có khả năng.

Con đường tu tập tâm từ luôn phải song hành cùng tinh thần phụng sự, độ tha nếu không hành giả trở thành người nhu nhược yếu đuối lấy từ bi che chắn khi đối diện với chướng duyên. Tùy từng người tu mà có những cấp từ bi khác nhau. Tâm chưa đủ rộng lớn, bao dung thì không nên ngượng ép, điều này không đem đến lợi ích mà ngược lại tạo nên áp lực nặng nề lên chính mình. Vì vậy, mỗi hành giả cần luyện tập từng giờ, từng phút, từng ý niệm đến mỗi câu nói hành động đều toát lên từ bi, trí tuệ. Dù biết từ bi luôn có sẵn trong tâm mỗi người, nhất là ai đã hướng đến con đường Thánh vị nhưng khi bắt đầu hành trì, áp dụng trong cuộc sống đòi hỏi nhiều thử thách. Chúng ta trên cuộc này đều có biệt nghiệp riêng, người hành trì và những người được hướng đến đều bị chi phối ít nhiều, để khiến họ thay đổi hành động của họ là điều không hề đơn giản khi họ chưa thực sự muốn đổi. Tâm từ bi của người hành trì có thể đạt đến mức độ nào đó nhưng không thể sánh như Đức Phật, người đã đạt cảnh giới cao tột. Khi không nhận định điều này, chúng ta dễ nhầm lẫn và dẫn đến rơi vào ảo tưởng. Để đạt được như Đức Phật cần nhiều yếu tố. Điển hình, khi đã có tâm từ nhưng điều quan trọng không thể thiếu đó chính là năng lực duy trì năng lượng từ bi đó không ngằn mé, không điều kiện vụ lợi, vượt không gian, thời gian, không thoái thất tâm ban đầu, điều này không hề đơn giản. Điều cần nhận rõ rằng chính bản thân chúng ta vẫn còn nhiều chướng ngại, niệm chấp thân ta, người thân thuộc, người ghét ta, người ta không thương vẫn luôn hiện hữu trong ý niệm khởi lên. Khi rải tâm từ luôn đòi hỏi phải giữ tâm Bồ đề, hai điều này phải luôn song hành, nếu không sự việc trở nên vô nghĩa.

Điều kiện không thể thiếu khi hành tâm từ đó là tâm bi, tâm hỷ và tâm xả tức là kết hợp Tứ vô lượng tâm. Sự kết hợp này mới đem đến kết quả tốt đẹp trong các trường hợp trong cuộc sống khi rải tâm từ. Đức Thế Tôn dạy: “ Với phương tiện nào chúng ta thỉnh thoảng đạt được và an trú hỷ do viễn ly sanh ”. Tâm tùy hỷ, vô cầu, vui với thành công người khác, hoan hỷ chơn chánh, không phải vì tài vật, đau khổ người khác hay tự cao về chiến thắng của mình. Niềm hoan hỷ sâu lắng, tận đáy lòng với thành tựu từ tu tập tâm từ cộng với niệm xả không còn vướng mắc. Khi còn những niệm chúng sanh trong tâm, thật khó thoát khỏi tam độc (tham, sân, si) chi phối khiến tâm ta không chỉ bị kẹt vào các niệm triền cái như nghi, mạn, kiêu mạn mà còn vướng chấp vào phước thiện đạt được do công phu, tu tập, kết quả đạt được do rải tâm từ. “ Hoan hỷ chỉ có đến/ Với người tâm không sầu muộn/ Sầu muộn chỉ có đến/ Với người tâm không hoan hỷ…”. Hành giả sống với niệm xả, không ôm ấp những hoan hỷ hay sầu muộn, cũng không hoài tưởng quá khứ, mơ tưởng tương lai. Chính tâm xả góp phần thành tựu tâm từ, chánh niệm, tỉnh giác, hiện tại lạc trú. Tứ vô lượng tâm từ, bi, hỷ, xả là những tố chất căn bản tạo nên phẩm hạnh người tu Phật.

Kết luận :  Rải tâm từ cũng là phương pháp tu tập, pháp môn hành trì của người con Phật, đặc biệt là hàng xuất gia. Đức Phật giảng dạy :” Vị ấy an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân ”. Sau khi giảng về phương pháp tu tâm từ, Đức Phật cũng giảng tương tự như vậy với tâm bi, tâm hỷ, tâm xả. Nhờ bốn tâm này kết hợp với nhau, sự tu tập dễ dàng thăng tiến, Bồ đề tâm ngày càng quảng đại, rộng lớn, muội lược tham, sân, si.

Tu tập tâm từ đối với người thân, người ta kính mến, sau đó hành giả thực tập rải tâm này hướng đến những người khác, đến với chúng sanh, muôn loài. Dựa vào công phu chuyên nhất, huân tập trong từng sát na qua thân, khẩu, ý, từ đó mở rộng từ tâm, yêu thương, không sân hận để chuyển hóa hữu tình có duyên với chúng ta. Năng lực có được nhờ tâm từ rộng lớn có thể chuyển hóa chính người tu tập và cả chúng hữu tình được hướng đến, điều này hoàn toàn tương ứng với thuyết nhân quả nghiệp báo trong Phật giáo. Những nghiệp bất thiện mà chúng ta đã gây ra hay nghiệp bất thiện do mỗi chúng hữu tình đã gây tạo sẽ muội lược dần vì nghiệp báo vốn không phải là định mệnh. Do đó, công đức, phước báu nhờ ban rải tâm từ, mở rộng yêu thương, niệm lành có thể chuyển các nghiệp đã tạo theo hướng tốt hơn. Tâm từ luôn có mặt hiện hữu đối với chư Phật, Bồ tát và từ bi cũng chính là nguồn cội của các pháp lành cần tu tập đối với tất cả đệ tử phật dù là xuất gia hay tại gia. Giữ tâm luôn an vui, không cho khởi lên những niệm sân, hành giả rải tâm từ đến người khác ngay cả người ác ý với mình. Khi chính ta có tâm từ bi mới ban rải đến người khác và như vậy họ mới cảm nhận được và chuyển hóa.

Trích VHPG : 1-1-2022- số 381-  Về Tâm từ và rải tâm từ : SC Thích Nữ Trung Tâm.

Tóm tắt bài tâm từ

( Thực hiện tâm từ có nhiều cách : Như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, cúng dường, làm từ thiện, phục vụ… niệm Phật, tụng kinh , trì chú , nghe pháp, tọa thiền v .v.   có sự có lý, sự lý đi đôi năng lượng càng nhiều và lớn mạnh … )

lợi ích chuyên cần hành trì tu tập tâm từ mà sau khi miên mật, tinh cần sẽ đạt được như : “ ngủ an lạc, thức an lạc, không ác mộng; được loài người ngưỡng mộ; được phi nhân ái kính;( Đức trọng quỷ thần kinh ) được chư thiên bảo hộ; không bị lửa, thuốc độc, đao kiếm xúc chạm; được thiền định mau chóng;  sắc mặt tươi sáng; khi mệnh chung không hôn ám; nếu chưa thể nhập thượng pháp được sanh lên phạm thiên giới ”.  Tâm từ là một trong những yếu tố thuộc các pháp tác thành hạnh Sa môn. Là vị Sa môn chân chánh như thật, hành giả phải thọ trì và thực hành như giới hạnh, chánh niệm trong các căn, tiết chế tri túc trong ăn uống, luôn phòng hộ tâm, tỉnh thức giác ngộ trong từng sát na, đoạn trừ các triền cái, bốn tầng thiền na, ba minh, bậc A La Hán.  ( Tam minh: Túc mạng minh, thiên nhãn minh và lậu tận minh . 1/ Túc mạng minh: Biết được sự sống của mình và chúng sanh, từ nhiều đời kiếp trước   2/ Thiên nhãn minh : thấy rõ sự tái sanh của con người và chúng sanh về sự nhân quả và luân hồi của con người và động vật trong tương lai. Từ đâu sanh ra chết đi về đâu . 3/ Lậu tận minh : thấy rõ biểu hiện sanh tử khổ đau và nguyên nhân gây tạo ra khổ đau là tham ái, sự si mê chấp thủ. Và phương pháp diệt trừ khổ đau ra khỏi sanh tử luân hồi.)

Đức Phật đã dùng năng lượng tâm từ mà vượt qua các khó khăn trở ngại trên đường tu chứng và hành đạo.  Sau khi thành đạo dùng năng lượng từ tâm mà Phật đã hàng phục được những kẻ ác, các phái ngoại đạo quy hàng làm đệ tử Phật, từ trên vua quan đến các thứ dân, các nhà trưởng giả, các nhà tri thức, các người dân giai cấp thấp đều nương từ tâm của Phật mà được chuyển hóa cuộc đời họ.

Từ đó về sau khi Phật nhập diệt tinh thần ứng dụng năng lượng từ tâm được các hàng đệ tử Phật tiếp tục phát huy và ứng dụng trong sự tu tập khiến cho Phật pháp được phát triển mạnh mẽ và lâu dài. Nói đến đạo Phật là nói đến từ bi, là người xuất gia hay tại gia không thể không thực hành hạnh từ bi . Nếu không có hạnh từ bi thì xem như không phải đệ tử của Phật.

Nhờ ứng dụng từ bi trong sự tu tập mà phiền não tham, sân, si được giảm dần. Muốn tham, sân, si được giảm nhẹ thì phải thực hành hạnh từ bi, muốn tu tập thăng tiến thì phải thực hành hạnh từ bi. Hạnh từ bi không những ban trải đến con người mà còn rải tâm từ đến các loại động vật sinh vật nữa. Hạnh từ bi không chỉ đối với con người mà hướng đến cỏ cây hoa lá, các loài cầm thú, sinh vật lớn hoặc nhỏ, hạnh từ bi đều hướng đến bảo vệ và thương yêu mọi loài, mọi chúng sanh.

Tâm từ bi xóa bỏ được hận thù, giảm nhẹ nghiệp chướng đời này và các đời trước, thay đổi tâm tính kẻ hung bạo thành hiền lương đạo đức đem lại sự bình an cho gia đình và xã hội. Điển hình như tướng cướp Lê Lam người quê quán Quảng Trị. Bắt đầu ăn cắp từ tuổi còn nhỏ lần lớn lên thành tướng cướp nổi tiếng từ trong nước ra đến ngoài nước. Một con người đã từng vào tù ra tội không biết bao nhiêu lần, luật pháp nhà nước răn đe đủ mọi hình thức, nhưng ra tù rồi tánh nào tật đó không thay đổi. Nhưng đến với đạo Phật ông thay đổi một cách dứt khoát và mau lẹ.

Tâm từ làm cho xã hội an vui thế giới hòa bình nhân dân an lạc, tâm từ xóa bỏ hận thù kết nối tình yêu thương, làm cho mọi việc từ xấu trở nên tốt. Tâm từ thay đổi kẻ hung bạo, không cần dao kiếm, gậy gộc, hay sức mạnh mà thay đổi được đối phương bỏ ác làm lành.

Tâm từ thay đổi nghiệp chướng của mình và người khác, tâm từ định hướng cho cuộc sống tốt đẹp ở hiện tại và nhiều kiếp mai sau. Tâm từ thay đổi được vận mệnh. Tâm từ giúp cho sự tu tập mau thăng tiến, trí tuệ phát sanh, giới thể thanh tịnh, tu mau giải thoát, ra khỏi phiền não, giữ được ba nghiệp thanh tịnh.

Tâm từ giúp cho sự nghiệp phát triển lâu bền, mọi việc thành công ít khi gặp thất bại, Tâm từ được nhiều người mến mộ, Tâm từ cũng cảm hóa được các loài động vật ăn thịt như hỗ, báo, sư tử, cá sấu  v.v trở thành người bạn thân thiết. Điển hình như đức Phật đã từng cảm hóa voi dữ ngựa hung v.v… và thời hiện tại các nhà nuôi thú dữ như sư tử, cọp, chó sói, cá sấu, trăng v.v …cũng dùng tâm từ mà cảm hóa thành những con vật thuần lương thân thiện..

Như vậy tâm từ có sẵn trong mỗi người và mỗi loài động vật, biến ác thành hiền, chuyển hung dữ thành hiền lương đạo đức. Nhưng tâm từ ở đỉnh cao chỉ có ở chư Phật và Bồ tát, các vị tu hành đắc đạo mới có thể ban trải cùng khắp cả trong sáu loài chúng sanh, thay đổi được vũ trụ thời tiết . Còn tâm từ của người bình thường chỉ cảm hóa giới hạn trong một phạm vi nhỏ, và đối với một số người một số động vật, trừ khi tu tập chứng đắc được tự tánh, chân lý vũ trụ thì tâm từ mới rộng mở cao hơn.

   (  soạn : 20/01/ 2022 )

{]{

TÂM TỪ VÀ LỢI ÍCH RẢI TÂM TỪ Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét