LẬU HOẶC
Lậu hoặc là nhân đưa đến đau khổ
và luân hồi sinh tử triền miên. Đó là lý do vì sao người tu giải thoát cần đoạn
trừ lậu hoặc.
Lậu hoặc là
tên khác của phiền não ( tham, sân, si ).
Lậu là âm Hán, có ba nghĩa : Nghĩa thứ nhất : là chảy ra, vì loài hữu tình
trong ba cõi, thông qua sáu căn, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý chảy ra phiền não
không ngừng, nên gọi là lậu. Nghĩa thứ
hai : là lưu, là rớt, vì loài hữu tình do nó mà lưu lại trong ba cõi, không thể
giải thoát nên gọi là lậu. Nghĩa thứ ba
: là sót mất. Vì do đây mà bỏ mất chánh đạo, nên gọi là lậu.
Hoặc : là mờ,
do mê cảnh mà điên đảo sự lý nên gọi là hoặc. Do mê lầm đối với cảnh được nhận
biết mà sinh phiền não, nên gọi là lậu hoặc. Muốn không phiền não, muốn giải
thoát thì phải hàng phục cho được phần lậu hoặc này.
Trong Kinh
Trung bộ I, Phật dạy bảy cách giúp phòng hộ và diệt tận lậu hoặc. “ Này các Tỳ kheo ! Có những lậu hoặc phải do tri kiến mà được đoạn
trừ; Có những lậu hoặc phải do phòng hộ mà được đoạn trừ; Có những lậu hoặc phải
do thọ dụng mà được đoạn trừ; Có những lậu hoặc phải do kham nhẫn mà được đoạn
trừ; Có những lậu hoặc phải do tránh né mà được đoạn trừ; Có những lậu hoặc phải
do trừ diệt mà được đoạn trừ; Có những lậu hoặc phải do tu tập mà được đoạn trừ
”. Nếu y cứ vào nghĩa của lậu hoặc là do mê cảnh mà sinh tham,sân, si, thì 7
pháp giúp diệt tận lậu hoặc chính là : Phải trang bị cho mình loại tri kiến mà
tri kiến này giúp trừ bỏ mê lầm và tham, sân, si. Phải có sự phòng hộ mà sự phòng
hộ này giúp trừ bỏ mê lầm và tham, sân, si. Phải có sự thọ dụng mà sự thọ dụng
này giúp trừ diệt mê lầm và tham, sân, si. Phải có sự kham nhẫn mà sự kham nhẫn này giúp trừ bỏ mê lầm và tham, sân, si. Phải
có sự tránh né mà sự tránh né này giúp trừ bỏ mê lầm và tham, sân, si. Phải có
sự trừ diệt mà sự trừ diệt này giúp trừ bỏ mê lầm và tham, sân, si. Phải có sự
tu tập mà sự tu tập này giúp trừ bỏ mê lầm và tham, sân, si. Trừ bỏ từ phần hiện
hành cho đến phần chủng tử, nó chính xác là soi thấu thực chất của những chủng
tử ấy.
Tri kiến giúp đoạn trừ lậu hoặc :
Một chàng
trai thuộc gia đình khả kính sống ở thành Xá vệ, vào rừng kiếm con bò bị lạc.
Sau khi tìm ra bò, anh đói quá bèn tìm đến tinh xá xin thức ăn. Ăn xong anh nhận
ra rằng, dù lao động vất vả anh cũng không thể kiếm thức ăn ngon như ở tịnh xá,
ở đó lại không phải lao động cực nhọc, vì thế anh xin xuất gia.
Sau khi xuất
gia, ăn uống no đủ phì béo rồi, anh lại chán đời sống khất thực và muốn hoàn tục. Hoàn tục rồi, làm việc cực nhọc, thân thể tiều
tụy, anh lại muốn xuất gia. Xuất gia xong, lại bất mãn và hoàn tục. Do khi còn
trong Tăng chúng, anh thường làm việc chăm chỉ và hay giúp đỡ mọi người, nên dù
xuất gia và hoàn tục đến sáu lần, anh vẫn được chấp nhận trở lại. Và anh được đặt
tên là Cittahattha. Cittahattha, có nghĩa là người bị tâm sai sử.
Lần thứ 7,
khi trở về nhà, lòng đang phân vân ray rứt vì việc hoàn tục của mình, thì trông
thấy vợ đang có thai nằm ngủ, miệng mở toang hoác, ngáy vang trời, nước miếng
nhễ nhãi, trông chẳng khác gì một tử thi đang trương phồng. Anh nhận ra mọi thứ
ở thế gian đều vô thường và đau khổ, thứ gì cũng có thể thay đổi. Thấy rồi, anh
nắm chiếc y vàng chạy vội về tịnh xá.
Trên đường
đi, anh ôn lại câu “ Các pháp trong thế gian đều vô thường, trói buộc, trong
đau khổ ”. Và chứng được quả Dự lưu. Nhưng đợt này khi xin gia nhập lại Tăng
đoàn, anh bị từ chối quyết liệt. Anh phải năn nỉ mới được trở lại. Vài ngày
sau, anh đắc quả A la hán.
Thấy xuất gia
được ăn ngon, mập mạnh mà không cần phải lao động cực nhọc, hay thấy thân thể bất
tịnh của vợ mà nhận ra sự vô thường… đều gọi là tri kiến. Tri kiến là thấy biết.
Có loại tri kiến dẫn con người đến chỗ bất thiện, không tránh được phiền não và
khổ nạn trong hiện tại và tương lai, như loại tri kiến ban đầu của chàng thanh
niên. Tuy nhờ nó anh vào Tăng đoàn, nhưng vì tri kiến ấy mang tính tham dục nên
cũng chính nó khiến anh ra khỏi Tăng đoàn, tăng thạnh tham dục. Có loại tri kiến dẫn con người vào Thánh đạo,
như tri kiến vô thường của chàng thanh niên. Nó chính là loại tri kiến đang được
đề cập ở phần này. Đó là loại tri kiến giúp diệt tận phiền não. Vì nó hình
thành do “ như lý tác ý”. Nhờ nó mà mê lầm
chấm dứt và tham, sân, si hoại diệt. Nhờ nó mà chàng trai chứng Thánh quả.
Như lý tác ý
là y như cái lý đang chi phối thế giới này mà hình thành nên tư tưởng chủ đạo của
mình. Như lý thế nào ? Như lý Nhân duyên, Nhân quả, gọi chung là lý duyên khởi.
Vì sao có hiện tượng duyên khởi ? Vì tánh các pháp là không. Do tánh các pháp
là không nên mới có hiện tượng duyên khởi. Nếu tánh pháp là có thì pháp sẽ tự
có và thường trụ, không cần nhân duyên sanh. Nhưng thực tế ở thế gian, tất cả đều
do nhân duyên sinh. Nên biết, pháp không
có tánh. Tu hành chính là làm sao thấy cho thấu được mặt duyên khởi này (triển
khai thành nhân duyên, nhân quả ). Tế hơn nữa, là soi cho thấu cái gọi là bản
chất của duyên khởi. Bởi duyên khởi chỉ mới là mặt hiện tượng của pháp. Còn mặt
bản thể của pháp, chính là tánh không. Tánh không, là tên khác của Phật tánh.
Phật tánh là nhân, thành tựa quả vị Phật là quả. Nên cổ đức nói “ Tam giới duy
tâm, vạn pháp duy thức”.
Cũng do tánh vạn pháp là không nên mới
có hiện tượng vô thường. Người phụ nữ kia, nếu có định tánh thì ngày trước cô
ta như thế nào, ngày sau cô cũng thế đó, không thể đẹp trở thành xấu, sạch trở
thành bẩn v.v... Nhưng vì pháp ở thế gian không có định tánh, nên đẹp có thể
thành xấu, sạch có thể thành bẩn, nay vui mai buồn v.v..là vậy. Tư tưởng hay
tri kiến của người đời cũng vậy. Có thể thay đổi theo thời gian. Cái thay đổi
đó biểu hiện cho sự vô thường. Vì chúng lệ thuộc vào duyên. Chàng trai xuất gia
không yên, vì tri kiến của anh gắng liền với sắc dục của vợ. Khi duyên ấy thay
đổi, tri kiến của anh cũng thay đổi theo. Thay đổi theo chiều “ như lý tác ý”
nên tham ái được diệt trừ và anh chứng Thánh quả.
Trong các kinh
thuộc hệ A hàm, quả vị lậu tận chỉ dừng ở A la hán hay Bích chi Phật. Thức chỉ
mới đề cập đến sáu thức, chưa nói đến thức thứ bảy, thứ tám; cũng chưa nói đến
Phật tánh hay Tri kiến Phật; Trung đạo là Bát chánh đạo. Vì thế tri kiến như lý
tác ý có thể giúp hành giả chứng nhập Tứ quả không đòi hỏi phải là tri kiến về
phật tánh, Tánh không duyên khởi, hay phần Trung đạo nói trong luận Trung quán
hay Bát nhã. Chỉ cần trang bị Tri kiến khổ, không, vô thường, vô ngã, Tứ đế, Thập
nhị duyên sanh là đã có thể diệt tận phần lậu hoặc giúp đạt Thánh quả A la hán
hay Bích chi Phật. Kinh Thắng Man gọi phần lậu hoặc này là Tứ trụ địa phiền
não. Đó là Kiến trụ địa phiền não và Ái trụ địa phiền não thuộc ba cõi. Tứ trụ
địa phiền não lấy Căn bản vô minh trụ địa làm nền tảng. Muốn diệt trừ phần Căn
bản và vô minh này, đòi hỏi hành giả phải trang bị cho mình loại tri kiến Trung
đạo mà Bát nhã hay Trung luận đã đề cập, kinh Pháp Hoa gọi là Tri kiến Phật.
Phần tri kiến
giúp diệt tận lậu hoặc này, thấy có tác dụng mau chậm tùy vào túc căn của từng
người. Mau, như chàng thanh niên, nhận ra lẽ vô thường chứng quả A la hán sau
đó vài ngày, là do đời trước có công phu đã thuần thục, chỉ vì “ ra đời cách ấm
còn mê ” nên phiền não tham dục hiện khởi. Chỉ cần hiện khởi loại Tri kiến như
lý tác ý, lậu hoặc liền chấm dứt. Như Lục tổ Huệ Năng chỉ cần nghe một câu
kinh, liền đốn ngộ tự tâm. Đều do căn lành đời trước đã thuần thục.
Với người mà
túc căn chưa sâu dày thì dù tri kiến như lý tác ý đã xuất hiện, trên sự vẫn cần
dùng các các pháp khác để diệt trừ lậu hoặc. Đó là lý do có đến 7 pháp giúp diệt
trừ lậu hoặc, không phải chỉ có phần tri kiến này. Song phần tri kiến như lý
tác ý này là nền tảng để các pháp còn lại có điều kiện được phát huy. Vì không
có tri kiến về Tứ đế v.v… thì không biết đường để phòng hộ hay tu tập.
Phòng hộ
giúp đoạn trừ lậu hoặc.
Phòng hộ nói
đây là phòng hộ sáu căn khi tiếp xúc với sáu trần.
Vì sao phải
phòng hộ ? Vì sáu căn là nơi có thể hiện
khởi tập khí tham dục, sân giận, ngu si. Cũng là nơi tiếp giáp thu nhận vào tạng
thức những chủng nhân mới, có thể gây chướng ngại cho sự tu tập, giải thoát. Đó
là lý do cần phòng hộ sáu căn.
Con trai người
chưởng khố Soreyya, trên đường ra ngoài thành tắm cùng bạn bè thì gặp Tôn giả Đại
Ca Chiên Diên. Thân thể vàng óng của Trưởng lão đập vào mắt Soreyya khiến anh
buộc miệng :: “ Ồ phải chi Trưởng lão này là vợ ta. Phải chi vợ ta có nước da
như thế ”. Do không phòng hộ con mắt nên tri kiến tham dục dấy khởi. Từ đó nẩy
sinh thêm các bất thiện pháp. Kẻ phòng hộ giỏi thì khi thấy sắc, chỉ là thấy,
không để tham dục niệm dấy khởi. Lỡ dấy khởi rồi thì tỉnh giác, sám hối, không
cho nối tiếp.
Nếu phản quan
tốt sẽ nhận ra rằng, nếu không phòng hộ bị sáu căn của mình cho kỹ, dễ sinh phiền
não vô cùng. Nhìn những vật dụng của mình bám đầy bụi nhơ và bị đảo lộn thường
sinh nóng giận. Lời ngang khiến mình sinh bực, lời thuận khiến mình sinh vui
v.v…Thứ gì nếu không phòng hộ đều khiến tâm luôn sinh khởi, không thể ở thế
Trung đạo.
Mắt không thể
thấy những gì xảy ra sau lưng và trong
bóng tối, nhưng tai vẫn nghe những gì nó không thể thấy trong tầm nó có thể
nghe. Kinh Lăng Nghiêm phân nhãn căn chỉ có 800 trăm công năng mà nhĩ căn đến
1200 công năng. Vì thế, nhĩ căn có nhiều điều kiện cần chý ý và phòng hộ hơn.
Trong Khóa Hư
Lục giảng giải, HT Thanh Từ có kể câu chuyện về một Sa di ngang qua hồ sen, thấy
hương thơm liền đứng lại thưởng thức. Bị Địa thần quở. Ngay lúc đó, có mấy người
ào xuống hồ, kẻ hái gương, người nhổ ngó. Thấy vậy Sa di hỏi Địa thần “ Tôi chỉ ngửi một chút hương ông đã quở, còn
những người kia kẻ bẻ gương móc ngó sao ông không rầy ? ”. Địa thần nói : “ Như
người mặc chiếc áo trắng, chỉ cần dính một điểm mực nhỏ đã thấy nhơ. Còn người
mặc áo đen, dính một bệt mực nữa cũng không thấy. Ông là người tu hạnh thanh tịnh,
ngửi một chút hương sen là đã nhơ rồi. Còn các người kia là kẻ phàm tục, không
tu hành, dù họ có làm những điều tội lỗi cũng như vệt mực phết lên áo đen. Nên
tôi rầy ông mà không rầy họ ”. Không tu hay chỉ tu phước cầu vui, không đòi
hỏi phải phòng hộ các căn như người tu giải thoát. Bởi muốn giải thoát thì lậu
hoặc phải diệt tận. Cho nên cần phòng hộ các căn. Các căn được phòng hộ thì
không tạo nhân duyên cho tập khí sinh khởi, cũng không tạo nhân duyên thu nhận
thêm những chủng nhân làm chướng ngại việc giải thoát. Không phòng hộ được thì
căn chính là nơi khiến chúng sinh lưu chuyển trong sanh tử. Trong kinh Lăng
Nghiêm, Phật nói “ Sáu thứ mắt tai mũi lưỡi thân ý làm mai mối cho giặc, cướp hết gia bảo
của ông. Do đây từ vô thủy, thế giới chúng sanh sinh ra ràng buộc, không thể vượt
khỏi sự vật thế gian ”Phòng hộ được thì ngay đó giải thoát.
Đối với tỷ
căn và thân căn cũng vậy. Những gì có nguy cơ làm tăng trưởng tham hay sân, đều
nên có tâm phòng hộ. Thân một khi làm việc nhọc quá khiến sinh căng thẳng, sân
hận, thì phải biết dừng lại, làm việc vừa sức mà phòng hộ. Ăn nếu có khuynh hướng
nảy sinh tham dục, sinh mê muội v.v…cũng phải biết mà dừng lại. Đó gọi là phòng
hộ. Nói chúng, những gì có khuynh hướng khiến, tham, sân, mê muội nảy sinh từ
các căn, đều phải biết mà phòng hộ. Đó gọi là phòng hộ các căn đoạn trừ lậu hoặc.
Thọ dụng giúp đoạn
trừ lậu hoặc
.
Phật dạy : “ Này các Tỳ kheo, ở đây Tỳ kheo như lý giác
sát, thọ dụng y phục, chỉ để che đậy sự trần truồng của thân, ngăn ngừa nóng lạnh,
xúc chạm của các loài côn trùng. Vị ấy như lý giác sát, thọ dụng món ăn khất thực
không phải để vui đùa, đam mê, trang sức, hay tự làm đẹp mình. Chỉ để thân này
được dài lâu, để thân này khỏi bị hại thương, để hỗ trợ phạm hạnh…” Như vậy thọ dụng nói đây là đối với việc ăn mặc.
Ăn mặc sao cho tham dục và sân hận không tăng trưởng. Mục đích của việc thọ dụng
này là để hỗ trợ phạm hạnh. Đây là chỗ khác với người đời, ăn là phải ngon, mặc
là phải đẹp, là chỗ hướng đến của người đời.
Như lý giác
sát, là y theo lý mà tỉnh giác quán sát xem ăn thế nào để đưa đến giải thoát,
không phải ăn để ngày càng bị trói buộc. Hạnh đầu đà chỉ ăn một bửa vào đúng ngọ
và không cho ăn phi thời, là để giảm sự trói buộc trong việc ăn uống.
Ngày nay, vì
căn nghiệp chúng sanh không được như người xưa nên việc ăn uống có thay đổi.
Nhưng muốn giải thoát, muốn việc thọ dụng trở thành hỗ trợ cho việc tu hành thì
tinh thần chính Phật dạy không thể quên. Đó là ăn để có sức mà tu, ăn để hỗ trợ
cho phạm hạnh, không phải ăn để thỏa mãn cái lưỡi, không phải ăn để làm đẹp,
cũng không phải ăn để có sức vui đùa… Tức ăn vừa đủ, không để tham dục dấy khởi,
không để phải gật gù trong các thời tọa thiền. Cũng không ăn quá thiếu khiến
thân thể lao nhọc, không thể ngồi thiền, cũng không thể lao tác, đầu óc trở nên
mù mờ, mất định tĩnh.
Những gì dù
ngon mà khiến thân thể mệt nhọc, bệnh hoạn, sinh tham dục v.v… đều phải từ bỏ.
Song người tu
thời nay, khi phước báu đến thì tinh thần chính của việc thọ dụng thường bị
đánh mất. Chúng ta dành hầu hết quỹ thời gian cho việc ăn uống, mất thời gian
vào việc ăn uống quá nhiều. Không phải chỉ ăn cho đủ chất mà ăn sao cho vừa miệng,
cho nhiều món, ngày càng cầu kỳ… Quên là ăn ngon không phải là mục đích của người
tu. Quên là thích ăn ngon, thích ăn bổ là nhân duyên sinh ra tham dục và gốc
nuôi dưỡng tham dục. Cho nên, hành giả tu giải thoát cần chú ý đến con đường
Trung đạo. Trung đạo là không vướng bên này và cũng không mắc bên kia. Không
thiếu cũng không dư. Tùy duyên của mình mà ăn để không đánh mất tinh thần mà Phật
đã dạy trong việc thọ dụng. Đã tùy duyên thì trên mặt hiện tướng, việc thọ dụng
của người này không giống người kia. Người gầy thì phải dùng áo ấm nhiều hơn
người có da thịt. Người lao tác nhiều thì phải ăn nhiều hơn người không lao
tác, khi không lao tác cũng không thể ăn như người đang lao tác v.v… tùy duyên
của từng người mà việc thọ dụng có khác nhau. Nhưng đều mang tinh thần là thọ dụng
sao cho phù hợp, cho vừa đủ với thân, khiến không tham trước cũng không sân hận.
Quan trọng thứ
hai cần chú ý trọng việc thọ dụng, là thói quen trong ăn uống. Nó là phần Tập
nói trong Tứ đế. Đã như lý mà giác sát thì phải chú ý đến phần Tập này. Tập là
sự tích tụ trong việc thọ dụng. Thứ gì tích tụ lâu sẽ thành thói quen. Những gì
đã thành thói quen sẽ gây chướng ngại khi ta ăn hay mặc trái với thói quen ấy.
Một khi ăn ngon mặc sướng quen rồi, cái ăn ngon mặc sướng ấy sẽ có lực làm chướng
ngại cho việc thọ dụng đơn giản. Vì thế những thọ dụng nào mang tính tham dục
chưa thành thói quen thì không nên để nó thành thói quen. Thọ dụng nào đã thành
thói quen thì dùng nhẫn lực phá bỏ, chớ thuận theo đó mà sống, khiến sự tích tụ
ngày càng nhiều, lực của thói quen ngày càng mạnh, việc trừ bỏ ngày càng khó.
Hành giả tu
giải thoát, dù là xuất gia hay tại gia, khi phước báu đến nhiều, cần tỉnh giác
phòng hộ trọng việc thọ dụng. Nên thọ dụng vừa đủ. Chớ thọ dụng theo phước báu.
Các thứ thọ dụng khác như nhà ở, tọa cụ, thuốc men v.v… đều y đó mà giải quyết.
Kham nhẫn
giúp đoạn trừ lậu hoặc.
Nói đến kham
nhẫn là nói đến những gì không thuận ý với mình. Ăn những món ăn không hợp khẩu
vị mà phải ăn. Mặc những thứ không thích mà phải mặc. Không chịu được lạnh mà
trời lạnh. Không chịu được nóng mà trời nóng. Ruồi, muỗi, gián, nhện làm phiền.
Đói phải chịu, khát phải đành. Nghe những lời không muốn nghe. Gần những người
không hợp. Xa những người thân thương v.v.. rất nhiều thứ trong cuộc đời này hiện
ra rất trái ý, mà không ít thì nhiều, ai cũng phải chịu. Bởi thế gian này có
tên là Sa bà. Nghĩa của nó là kham nhẫn. Sống ở cõi Ta bà này thì ít nhiều gì
cũng phải kham nhẫn mới tìm thấy niềm vui, mới thoát được sân hận. Người đời muốn
có hạnh phúc còn phải như thế, huống là người tu giải thoát, phát tâm Bồ đề vô
thượng.
Chiêm nghiệm
những gì xảy ra ở thế giới này mới thấy ý nghĩa của hai chữSa bà rất chính
xác. Cái gọi là bất như ý không theo một
hình tướng nhất định nào. Cái ý của người này có khi vẫn là bất như ý của người
khác. Cho nên, ai cũng có thể bất như ý. Đói, khát, nghèo, hèn …bất như ý. Giàu
sang, phú quý … bất như ý. Thành ra con
người của thế giới Sa bà vẫn là con người của thế giới Sa bà. Tướng dù thay đổi,
tâm vẫn bất như ý.
Giờ muốn yên ổn,
muốn hạnh phúc thì phải nhẫn được với những bất như ý này. Song nhẫn thế nào để
đượcan bình thật sự là cả một vấn đề. Vì không khéo, cái gọi là nhẫn đó chỉ là
sự đè nén. Đè lâu thì có ngày bung, thân tướng cũng hiện tướng bất mãn với người,
cái nhân của xích mích, chia lìa. Tuy vậy, cái gọi là đè này vẫn nên thực hiện.
Bởi nó giúp chúng ta dừng lực khởi của sân, dừng lực khởi của dòng tương tục.
Thực hiện như thế gọi là Chỉ. Giờ bổ sung phần Quán để giải tỏa sự đè nén đó.
Muốn nhẫn mà
không rơi vào tình trạng đè nén thì phải như Phật dạy : “ Này các Tỳ kheo ! Thế nào là các lậu hoặc phải do kham nhẫn mà được đoạn
trừ ? Này các Tỳ kheo, ở đây có Tỳ kheo như lý giác sát …”Phải nhờ đến cái
gọi là như lý giác sát. Cái “ như lý” này rất quan trọng. Nó là loại tri kiến
trị kiến giúp người tu buông bỏ những bất như ý, có thể kham nhẫn những việc
khó kham nhẫn.
Như lý thứ nhất có thể giúp hành giả nhẫn mà
không phải đè nén, là thấy lỗi mình. Đó là một loại hành tác giúp mình nhẫn mà
không phải đè nén. Đã phát tâm đi con đường làm Tổ thành Phật thì pải dứt cho
được trí phân biệt. Thành trong cái duyên đang tu hành thì chẳng nói đúng, sai,
phải, quấy, cứ khởi tâm là tội lỗi. Trong kinh Pháp bảo đàn, Lục tổ nhấn mạnh
việc thấy lỗi mình là đó. Hành giả phải tập đối diện với mọi thứ mà tâm bình
thường, không dựa trên sở tri đời thường mà phân đúng sai. Chỉ cần biết tâm khởi
niệm là lỗi, nên khởi niệm liền giác, giác rồi liền không. Lý này nếu thông được
thì trên sự sẽ nhẫn được với mọi thứ mà không phải dồn nén hay ức chế.
Như lý thứ hai là quán nhân duyên, nhân
quả. Mọi cái quả mà mình có hiện nay dù xấu hay tốt đều có nhân từ trước. Giờ đủ
duyên ra quả. Quả này là do mình gieo nhân, không ai gieo cho mình. Thông được
lý ấy thì trên sự, tuy nói kham nhẫn mà mọi thứ là bình thường. Tuy vậy, do
nghiệp của thân tâm nên có khi dù thông được lý rồi, trên sự nếu gặp phải việc
bức hại quá sức thân tâm chịu được thì ít nhiều cũng có sự chịu đựng, nên nói
kham nhẫn. Song nhờ phần như lý đó mà mọi thứ được hóa giải. Nếu có hiện tượng
kham nhẫn hay đè nén thì chỉ là với thân tâm mình không phải với người khác. Nếu
công phu miên mật, hiện tượng này sẽ là nhân duyên đưa đến sự bùng vỡ tự tâm.
Tránh né
giúp đoạn trừ lậu hoặc.
Tránh né là một
hình thức của tránh duyên.
Những duyên
nào nhắm không thể đương đầu, có thể ảnh hưởng đến thân thể khiến việc tu hành
bị đình trệ, có thể làm hiện hành và phát triển chủng tử tham dục cũng như sân
hận thì cần phải tránh. Bởi nhân đã gieo trong tạng thức muốn thành quả phải đủ
duyên. Tránh duyên là hành tác giúp không cho những nhân đã gieo trong tạng thức
có điều kiện thành quả, cũng là giúp không ghi nhận lưu giữ thêm nhân xấu. Nên
trong kinh Phật dạy : “ Thế nào là các lậu hoặc do né tránh mà được
đoạn trừ ? này các Tỳ kheo, ở đây các Tỳ kheo như lý giác sát, tránh né voi dữ,
ngựa dữ, bò dữ, chó dữ, rắn khúc cây, gai góc,
hố sâu, vực núi, ao nước nhớp,vũngnước…”. Đó là những duyên bất lợi cho bản thân, khiến
việc tu hành bị đình trệ. Như lý giác sát nói đây, là phải biết sức mình không
đủ kham nhẫn các duyên như ngựa dữ v.v.. cũng không tạo duyên để bệnh tật đến
thân như vào ao nước bẩn v.v..
Cũng dạy : “ Ở
đây, các Tỳ kheo như lý giác sát, có những chỗ ngồi không xứng đáng ngồi, những
trú xứ không nên lai vãng, những bạn bè ác độc mà nếu giao du thì bị các đồng
phạm hạnh nghi ngờ khinh thường ”. Như lý giác sát nói đây, là phải biết rõ
nhân duyên mình đang an trụ. Mình đang là người đời hay người tu, tại gia hay
xuất gia, khỏe mạnh hay yếu đuối, không dính mắc hay dễ dính mắc, chủng tử tập
khí của mình là gì v.v…, biết rõ thì mới biết duyên nào cần tránh. Tùy duyên mà
hành xử sao cho hợp thời.
Những chỗ ngồi
không xứng đáng là những chỗ mà phạm hạnh của mình chưa đủ lực để ngồi. Nếu ngồi
tổn đức. Hòa thượng Tinh Vân, trong bài “ Bạn muốn làm hạng người nào ? ”, Nói
: “ Nếu ngồi không đúng chỗ, không chỉ như có kim dưới ghế, nhấp nhỏm không yên
, mà sau đó bạn phải mất điểm với người khác. Chụp hình không nên ngồi ở giữa,
vì như thế bạn không kính trọng người khác, không khiêm tốn, đánh mất sự ủng hộ
của họ. Đi đường đi phía trước là tự cao tự đại, không biết kính trọng người
già người trên, không biết khiêm tốn nhường đường. Đặc biệt là tuổi trẻ đắc
chí, không nhìn thấy hầm hố và mối nguy phía trước, chúng có thể làm cho bạn mất
mạng bất cứ lúc nào. Làm người phải không nên bắt đầu từ ‘ trên, giữa, trước’
mà nên đi từ thấp lên cao, từ bên ngoài vào giữa, từ sau ra trước. Nền tảng bên
dưới chưa dày dặn, bạn không thể lên trên, lên cao, vĩ chỗ cao là nơi lạnh lẽo.
Bạn không bắt đầu từ phía ngoài mà trong chốc lát đã chen vào giữa. Muốn soi rọi
ra chung quanh ư, bạn đã tích tụ điện quang chưa ? Tư lương phía sau đầy đủ,
chuẩn bị hậu cần chu đáo, chúng ta mới có thể từ từ đi về phía trước ”. Cho
nên, Đại sư dạy : “ Người hàm dưỡng năng lực đủ không những có thể ‘ đứng trên đỉnh cao’ mà
còn có thể ‘ lặn xuống biển sâu’. Họ cao được, thấp cũng được, lớn được, nhỏ
cũng được; có thể quán xuyên mọi thứ triệt để trong thế gian ”.
Những trú xứ không nên lai vãng, là những chỗ không dành cho
người tu. Như người tu giải thoát thì không nên đến những nơi như phim trường,
ca nhạc, ăn nhậu v.v… Kinh Phạm Võng Bồ
Tát giới nói : “ Cũng chẳng được xem hát, nghe nhạc, chơi cờ, đánh bạc, chơi cầu,
đá bóng, cho đến chơi bói xú v.v…” Như vậy, những ai muốn đoạn trừ lậu hoặc thì
không nên đến những nơi có các mục đó, để tránh sinh khởi những chủng tập làm
loạn tâm, tăng trưởng hơn thua và tham, sân, si.
Tập khí, tập nghiệp
là tên khác của lậu hoặc. Vì thế, với những gì thuộc chủng tập của mình, mình
phải biết mà tránh duyên để giải tỏa. Những gì thuộc tập khí, đều mang tính
dính mắc, kéo lôi, khó mà muốn tránh duyên, nên một khi mình chịu tránh duyên,
cũng biểu hiện việc đoạn trừ phần lậu hoặc có liên quan khá khả quan, nhất định
có kết quả tốt đẹp.
Từ diệt
giúp đoạn trừ lậu hoặc.
Kinh nói : “ Thế nào là các lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn trừ ? này các Tỳ
kheo, ở đây Tỳ kheo như lý giác sát, không chấp nhận dục niệm đã khởi lên, Từ bỏ,
trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại dục niệm ấy. Không chấp nhận sân niệm đã
khởi lên. Từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại sân niệm ấy…”. Trừ
diệt là làm cho tiêu ma bại chủng. Từ bỏ, trừ diệt, diệt tận…nhấn mạnh ba lần,
cho thấy sự cương quyết tận diệt đối với các lậu hoặc. Vì sao cương quyết tận
diệt ? Vì lậu hoặc một khi có điều kiện hiện hành thì cũng có nghĩa là sẽ được
huân tập trở lại vào tạng thức, giúp tăng lực dẫn hành giả theo nó, bản tâm
ngay đó mà không thể nhận, cứ bị phiền não và sở tri cuốn trôi. Cho nên, muốn bản
tâm hiện tiền thì phải phá bỏ cho được cái lực của lậu hoặc. Muốn phá bỏ lực ấy
thì phải cương quyết diệt trừ lậu hoặc. Trừ diệt có nghĩa là không huân tập nữa,
không cho nó hiện hành tác yêu tác quái như trước kia.
Phần đoạn
sanh tử của chúng sanh là kết quả của phiền não chướng và nghiệp hữu lậu. Phiền
não chướng ấy là lậu hoặc. Biến dịch sanh tử của thánh nhân là kết quả của Sở
tri chướng và nghiệp vô lậu. Sở tri chướng ấy là lậu hoặc. Muốn hết phiền não,
chứng Bồ đề, phải trừ diệt lậu hoặc. Đó là lý do vì sao phải trừ diệt lậu hoặc.
Các lý do đó là một phần lý mà hành giả phải “ như lý giác sát” để trừ diệt lậu
hoặc.
Trừ diệt, đơn
giản chỉ là hành tác không cho lậu hoặc hiện khởi. Với những dục niệm, sân niệm,
các bất thiện pháp khởi lên đều trừ bỏ, không cho tồn tại. Song thứ gì đã huân
tập sâu trong tàng thức thì không phải muốn bỏ là nó đã không hiện khởi, vì thế
cần sự hỗ trợ của các pháp khác như tránh duyên, kham nhẫn v.v… Tránh duyên, để
không tạo duyên cho lậu hoặc sinh khởi. Kham nhẫn, vì lỡ sinh khởi rồi thì chịu
đựng, không cho nó phát thành hành động v.v…
Tu tập
giúp đoạn trừ lậu hoặc.
Các pháp trình
bày trên, là những pháp mà hiện nay chúng ta cũng xếp nó vào danh sách tu tập.
Song ở đây lập riêng phần này là để nhấn mạnh
đến các pháp tu giúp hành giả tiến sâu vào thiền định, trước là phá sạch
phần niệm hiện hành, sau là phát triển định huệ bình đẳng. Phải có phần tu tập
này thì mới có các quả chứng A la hán, Bích chi Phật và Phật quả.
Trong kinh Tất cả lậu hoặc, phần tu tập
này chỉ cho Thất giác chi. Thất giác chi còn có tên là Thất Bồ đề phần, là 7 phần
có công năng giúp cho trí Bồ đề xuất hiện, là muốn nói đến phần trí vô sư của
người tu. Do Thất giác chi mà “ chẳng phiền
não nơi tâm, tăng trưởng trí huệ, là minh, là chánh giác, chuyển hướng Niết bàn
”.
Thất giác chi gồm có : 1/ Niệm
giác chi, là đối với các pháp chánh niệm tu tập, y chỉ tư duy, y chỉ ly dục,
y chỉ tịch diệt, nhiếp phục tranh cãi. Nghĩa của nó nằm ở mấy từ chánh niệm, phần
còn lại là duyên hỗ trợ để biết chánh niệm ra sao. Chánh niệm là lấy việc ly dục
và tịch diệt làm chỗ y chỉ và hướng đến. Công năng của nó là nhiếp phục tranh
cãi.
2/Trạch
pháp giác chi, là dùng trí tuệ để chọn chân pháp, xả tà pháp. Kinh Tạp A
hàm 26 ghi : “ Có sự lựa chọn, phân biệt, tư duy, lúc bấy giờ tu tập Trạch pháp
giác chi ”.
3/ Tinh tấn giác chi, là không lười mõi đối với việc tu hành Chánh
pháp.
4/ Hỷ giác chi, là tâm vui vì trụ trong Chánh pháp. Kinh Tạp A hàm 26
ghi “ Khi đã nỗ lực tinh tấn rồi thì hoan hỷ sẽ sinh, xa lìa các tưởng về thức
ăn, là tu Hỷ giác chi ”
5/ Khinh an giác chi,là thân tâm khoan khoái an ổn.
6/ Định giác chi, là nhậ thiền định, tâm không tán loạn.
7/ Xả giác chi, là tâm bình đẳng, không thiên lệch, không chấp trước.
Theo kinh Tạp A hàm 26 thì chi trước là
nhân, chi sau là quả. Nhưng ở một số kinh luận khác thì không nhất quyết theo
thứ tự đó. Như Trạchpháp giác chi có
thể có trước Niệm giác chi v.v…
Trong 7 pháp trên, khi tâm rơi vào trầm
một thì ba pháp Trách pháp giác chi, Tinh tấn giác chi và Hỷ giác chi có thể
giúp tâm hết trầm một. Khi hành đạo, nếu tâm tán loạn thì ba pháp Khinh an giác
chi, Định giác chi và xả giác chi có thể giúp thu nhiếp tâm.
Trong phần khế
lý khế cơ, pháp tu này thuộc về khế cơ, tức do ứng cơ của chúng sanh mà lập,
nên không “ bất biến” mà “ tùy duyên ”. Tùy duyên của chúng sanh mà có pháp.
Cho nên phần tu tập này không chỉ có Thất giác chi mà còn vô số các pháp khác,
như hiện nay có Chỉ -Quán, Tham thoại đầu, Niệm Phật, Trì chú v.v…
Kết luận
: Kinh tất cả lậu hoặc ghi : “ Này các Tỳ kheo, những lậu hoặc nào phải do
tri kiến được đoạn trừ đã được tri kiến đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do
phòng hộ đoạn trừ đã được phòng hộ đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do thọ dụng
được đoạn trừ đã được thọ dụng đoạn trừ..v.v… Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo ấy được
gọi là đã sống phòng hộ với sự phòng hộ tất cả lậu hoặc, đã đoạn diệt khát ái,
đã thoát lykiết sử, đã chánhquán kiêu mạn, đã diệt tận khổ đau”. Đoạn văn
trên cho thấy cần nắm rõ tính duyên khởi của pháp thì việc dụng pháp mới có kết
quả. Tức tùy loại lậu hoặc mà có pháp đối trị tương ưng. Không phải dụng một loại
là mọi lậu hoặc đều được đoạn trừ. Phải dùng đúng pháp đối trị thì lậu hoặc đó
mới được đoạn diệt. Chẳng hạn những duyên trúng vào tập khí của mình mà mình
không biết tránh, cứ đương đầu vào đó dùng các pháp đối trị thì khó mà đối trị
được. Hoặc các lậu hoặc, cần phải thay đổi tư duy tri kiến mới phá bỏ được mà
không thay đổi thì khó mà phá được nó.
Thời Phật còn
tại thế, một Chưởng khố xin vị Trưởng lão đến khất thực tại nhà mình dạy cho
pháp giải thoát. Trưởng lão dạy anh bố thí và cúng dường. Sau khi thực hành
xong vậy rồi, anh hỏi Trưởng lão nên làm gì nữa ? Trưởng lão bảo anh xuất gia.
Anh vâng lời xuất gia và được giám sát bởi một luật sư và học hỏi bởi một luận
sư.
Thời gian
trôi qua, anh cảm thấy ngán đời sống tu sĩ, vì khó nhọc với các nhiệm vụ đang
mang trên mình. Anh muốn giải thoát mà rốt cuộc ngay cả chỗ để duỗi tay cũng
không có. Thấy đời sống cư sĩ có khi còn được giải thoát hơn, vì thế anh có ý
hoàn tục. Từ đó sinh tâm bất mãn và khó chịu. Anh trở nên hốc hác, mệt nhọc đè
nặng, ghẻ chóc đầy người… Hai vị luật sư và luận sư phải dẫn anh lên trình với
Đức Phật. Nghe anh thuật lại tâm tư, Phật bảo :
- Này Tỳ kheo ! Nếu ông chỉ làm được
việc này thôi thì không cần làm các việc khác.
- Việc đó là việc gì, thưa Thế Tôn ?
- Ông có thể canh chừng tâm ý của ông
chăng ?
- Dạ việc đó con làm được
- Vậy chỉ cần làm việc đó thôi
Đây gọi là dụng
pháp hợp cơ, đúng duyên, giúp vị Tỳ kheo trừ diệt tâm chán ngán bất mãn bằng
cách thay đổi tri kiến của ông. Bởi nếu không thay đổi tri kiến, cứ buộc vị ấy
trong các kiến thức và giáo điều thường tình của luật sư và luận sư, thì dù
kham nhẫn, tu tập hay phòng hộ bao nhiêu, cũng không thể giúp vị ấy bỏ tâm chán
ngán, bất mãn. Đó là lý do đoạn trừ lậu hoặc có đến 7 pháp, không phải một. Các
pháp cũng không phải riêng lẽ tách biệt hoàn toàn mà có khi được dùng trợ duyên
cho nhau để lậu hoặc được đoạn tận.
(Trích từ: Đoạn trừ lậu hoặc : Chân Hiền Tâm- NSGN số 264- 3-2018.)
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét