BỒ TÁT LONG THỌ VỚI TÊN ĂN TRỘM
Chân
Hiền Tâm.
Long Thọ (
Nagarjuna ) là một trong tám muôn bốn Đại thành tựu giả ở Ấn Độ vào khoảng thế
kỷ thứ IV. Ngài là một khất sĩ “ trần trụi” và được yêu mến bởi tất cả những
người cầu đạo chân chính.
Hoàng hậu
cũng quý kính Long Thọ hết mực. Ngày nọ, bà thỉnh cầu ngài vào cung. Long Thọ đến.
Hoàng hậu xin ngài một đặc ân.
-Long Thọ nói
: Hoàng hậu muốn gì ?
-Bà nói : Ta
muốn cái bát khất thực của ngài.
Long Thọ đưa
bát cho hoàng hậu. Đó là vật duy nhất ngài có. Cái bát khất thực. Rồi hoàng hậu
đưa cho Long Thọ một cái bát bằng vàng nạm kim cương.
- Bây giờ ngài hãy giữ cái bát
này. Ta sẽ thờ cái bát khất thực mà ngài đã mang theo bao lâu nay. Nó có năng
lượng gia trì của ngài. Giờ nó trở thành đền đài của ta. Một người như ngài
không nên dùng cái bát khất thực bằng gỗ tầm thường. Hãy giữ cái bát bằng vàng
này. Ta đặc biệt làm nó tặng ngài.
Cái bát thật
sự rất quý giá. Nếu Long Thọ là một hành giả tâm linh bình thường, hẳn ngài đã
nói “ Ta không dùng nó. Ta đã từ bỏ thế tục”. Nhưng đối với ngài, mọi thứ không
khác gì nhau, nên ngài đã nhận chiếc bát vàng.
Khi ngài rời
cung điện, một tên trộm nhìn thấy. Hắn không thể tin vào mắt mình. Một người trần
trụi như ông ta mà lại có thứ bảo vật quý giá như vậy ? Ông ta có thể bảo vệ nó
được bao lâu ? Vậy là tên trộm đi theo
ngài.
Long Thọ đang
trú trong một ngôi đền cổ đổ nát ngoài thị trấn, không có cửa đóng then cài. Nó
chỉ là một đống đổ nát. Tên trộm vui mừng nghĩ “ Chẳng bao lâu nữa ông ấy sẽ đi
ngủ và mình sẽ chôm cái bát không mấy khó khăn ”.
Khi tên trộm
đang nấp sau bức tường ngay bên ngoài cửa, Long Thọ ném cái bát ra. Hắn không
thể tin được những gì đang xảy ra. Long Thọ ném nó đi vì ngài biết tên ăn trộm
đang theo mình. Ngài biết rõ hắn theo ngài không phải vì ngài mà vì cái bát. Vậy
tại sao phải để hắn đợi, giải quyết cho xong để hắn còn đi, mình còn ngủ.
Tên trộm nghĩ
“ Một cái bát quý như vậy mà ông ta lại ném nó đi quá dễ dàng. Mình không thể
đi mà không cảm ơn một tiếng”. Hắn biết chắc cái bát được ném cho hắn.
- Hắn nhìn
vào và nói : Thưa ngài, xin hãy nhận lời cảm ơn của tôi. Ngài là một người hiếm
có. Tôi không thể tin vào mắt mình. Và một ao ước to lớn đã phát sinh trong
tôi. Tôi đang lãng phí đời mình khi làm một tên ăn trộm. Cũng có những người
như ngài chăng ? Tôi có thể bước vào và sờ chân ngài một chút được không ?
Long Thọ cười
và nói – Đó là lý do tại sao ta ném cái bát ra ngoài. Để anh có thể vào bên
trong.
` -Tên trộm đã mắc
bẫy : Hắn bước vào, sờ bàn chân của Long Thọ. Ngay lúc ấy, hắn thấy
lòng rộng mở và hoan hỷ. Hắn nhận ra con người này không phải bình thường. Hắn
khép nép, chân thành, biết ơn, thấy kỳ diệu và choáng váng. Khi chạm vào bàn
chân của Long Thọ, lần đầu tiên trong đời hắn cảm nhận được sự hiện diện của đấng
thiêng liêng.
Hắn hỏi Long
Thọ: Phải mất bao nhiêu kiếp để tôi được như ngài ?
Long Thọ nói
: Bao nhiêu kiếp ư ? Có thể ngay hôm nay và bây giờ.
Tên trộm nói
: - Ngài đùa chắc. Sao mà được ? Tôi là một tên trộm, một tên trộm khét tiếng,
cả thị trấn đều biết tôi, mặc dù không thể bắt tôi. Ngay cả nhà vua cũng sợ.
Tôi đã ba lần đột nhập hoàng cung ăn cắp kho báu. Họ biết mà không có bằng chứng.
Tôi là một tên trộm bậc thầy. Ngài không biết tôi, vì ngài là người xa lạ với mấy
chuyện này. Làm sao một kẻ như tôi lại có thể chuyển hóa ngay bây giờ ?
Long Thọ nói
: Trong một ngôi nhà cổ, bóng tối đã ngự trị ở đó trong nhiều thế kỷ và anh
mang đến một ngọn nến. Liệu bóng tối có nói với anh là “ Ta đã ở đây hàng thế kỷ.
Ta không thể biến mất chỉ vì anh đã mang đến một ngọn nến ? ”. Bóng tối có năng
lực phản kháng không ? Có khác biệt gì giữa bóng tối một ngày và bóng tối một
triệu năm ?
Têm trộm nhân
ra vấn đề. Bóng tối không thể chống lại ánh sáng. Khi ánh sáng đến, bóng tối bị
xua tan.
Long Thọ nói
: Anh có thể ở trong bóng tối hằng triệu kiếp. Điều đó không quan trọng. Nhưng
ta có thể cho anh một bí mật, có thể giúp anh thắp sáng một ngọn nến trong
chính con người anh.
Tên trộm nói
: Còn nghề của tôi ? Tôi có phải từ bỏ
nó không ?
Long Thọ
nói - Việc đó phải tự do anh quyết định. Ta không quan tâm anh là ai, làm nghề gì. Ta
chỉ có thể cho anh một bí quyết thắp sáng ngọn nến trong con người anh, và sau
đó mọi việc đều tùy thuộc vào anh.
Tên ăm trộm
nói : Nhưng bất cứ khi nào tôi đến hỏi các bậc thánh thiêng, họ đều bảo phải
ngưng ngay việc ăn trộm, sau mới có thể khai thị cho tôi.
Long Thọ cười
và nói : Phải đến hỏi mấy tên anh trộm ấy, đừng hỏi mấy ông thánh kia. Họ không
biết gì đâu.
Anh chỉ cần
theo dõi hơi thở của mình. Một phương pháp cổ xưa của Đức Phật. Anh chỉ cần
quan sát hơi thở vào, hơi thở ra. Bất cứ khi nào anh nhớ, hãy quán sát hơi thở
của mình. Ngay cả khi đi ăn trộm, khi anh đột nhập nhà người ban đêm, hãy tiếp
tục theo dõi hơi thở của mình. Khi mở rương báu, thấy kim cương lấp lánh trong
đó, cứ tiếp tục theo dõi hơi thở của mình. Muốn làm gì làm, nhưng đừng quên
theo dõi hơi thở.
Tên trộm nói:
- Nghe có vẻ đơn giản. Không cần đạo đức, không cần nhân cách, không đòi hỏi gì
khác ư ?
Long Thọ nói
: Hoàn toàn không. Chỉ cần theo dõi hơi thở.
Sau mười lăm
ngày, tên trộm quay lại. Hắn giờ là một người hoàn toàn khác. Hắn quỳ mọp dưới
chân ngài và nói :
Ngài đã bẫy
tôi. Ngài bẫy khéo léo đến nỗi tôi không mảy may nghi ngờ. Trong mười lăm ngày
qua, tôi đã cố gắng, nhưng không thể. Nếu theo dõi hơi thở, tôi không thể ăn trộm.
Nếu ăn trộm, tôi không thể theo dõi hơi thở. Khi theo dõi hơi thở, tôi thấy
mình rất yên lặng, tỏ tường và tỉnh giác đến mức ngay cả những viên kim cương
khi đó cũng không khác sỏi đá. Ngài đã tạo ra cho tôi một tình huống khó khăn,
một tình huống khó xử, tiến thoái lưỡng nan. Giờ tôi phải làm sao ?
Long Thọ
nói : Cứ lạc đường đi ! Cứ làm bất cứ điều
gì mình muốn. Còn muốn tĩnh lặng, an bình và hỷ lạc vốn khởi sinh trong anh khi
anh theo dõi hơi thở của mình, thì hãy chọn nó. Nếu anh nghĩ rằng tất cả kim
cương và vàng bạc có giá trị hơn thì chọn vàng bạc, kim cương. Cái đó là do anh
chọn. Ta là ai mà bàn tính cho cuộc đời anh ?
Gã ăn trộm
nói : Tôi không thể để mình chọn sự si mê không tỉnh giác một lần nữa. Tôi chưa
bao giờ được trải qua những khoảnh khắc như vậy. Xin ngài hãy nhận tôi làm đệ tử.
Xin hãy điểm đạo khai mở cho tôi.
Long Thọ nói
: Ta đã điểm đạo khai mở cho anh rồi.
Con đường tâm
linh cao thượng không dựa trên đạo đức mà dựa trên thiền định. Con đường tâm
linh đó không bắt nguồn từ những nguyên tắc mà từ tâm.
Nói đến Long
Thọ là nói đến Trung luận. Bộ luận nổi tiếng nhấn mạnh đến Trung đạo. Mở đầu bằng
bài kệ với tám chữ không ( bất ): Không
sinh cũng không diệt / Không thường cũng không đoạn / Không đến cũng không
đi/ Không một cũng không khác. Không
sinh, vì không phải là sinh khởi của phàm phu. Không diệt, vì không phải là tịch
diệt của Nhị thừa. Lìa hai bên ấy chính là Trung đạo. Toàn bộ giáo lý ấy thấm
đượm mọi hành vi của Long Thọ. Trần trụi, mà không chấp trước. Bởi trần trụi ấy
không bắt nguồn từ sự tịch diệt của Nhị thừa mà là hiện thân của tánh Phật, là
“ tướng không” nói trong kinh Bát Nhã, là “ phi tất cả mà tức tất cả” nói trong
kinh Lăng Nghiêm. Không trụ mé bên này mà cũng không trụ mé bên kia. Chỉ tùy
duyên hiện tướng. Vì là hiện tướng của tánh không, không qua lớp bọc vô minh,
nên mọi hiện tướng đều không lìa cái gọi là bất nhị.
Không thủ
cũng không xả : Khi hoàng hậu tặng
bát vàng, lấy bát gỗ, Long Thọ không phản kháng. Chẳng phải tu rồi, nhất quyết
chỉ dùng bát gỗ. Cũng không phải dùng bát gỗ quen rồi, giờ dùng bát vàng lại thấy
không quen. Không. Dụng pháp mà không chấp trước. Đủ duyên thì dùng bát gỗ. Hết
duyên bát gỗ, tới duyên bát vàng thì dùng bát vàng. Bạch Ẩn cùng hơi hướm này.
Đủ duyên, nhận trẻ xin sữa về nuôi. Hết duyên,trả trẻ, tiếp tục đường xưa, trước
sau vẫn chỉ “ Thế à ”.
Tuy vậy, nhận
ra tham dục vẫn là tập nghiệp của mình, chỉ dùng bát gỗ không nhận bát vàng, vẫn
là Trung đạo. Chẳng phải “ không thủ không xả” mới là Trung đạo. Bởi tánh các
pháp là không, tùy duyên hiện tướng. Tùy duyên hiện tướng nên biết tánh các
pháp là không. Tùy duyên dụng cho đúng pháp, lợi mình, lợi người, chẳng chấp
Trung đạo, hết bịnh buông thuốc, vẫn là Trung đạo. Cho nên, Trung luận mở đầu bằng
bát bất, nhưng trên cửa phương tiện thì chấp đâu phá đó. Chấp tam tướng thì phá
tam tướng, chấp Niết bàn thì phá Niết bàn, chấp Tứ đế thì phá Tứ đế v.v…
Khi truyền
pháp cho người, vẫn không ra ngoài Trung đạo. Chẳng nói bỏ nghề, chỉ nói thắp
sáng ngọn nến phá trừ tăm tối. Tổ Đạt ma, cũng dụng pháp này cho người có đủ
căn tánh thượng thừa. Nếu thấy tự tâm là
Phật, không cần vào chùa cạo đầu, cư sĩ cũng vẫn là Phật. Cư sĩ đã có vợ con,
dâm dục không dứt, làm sao có thể thành Phật? Chỉ nói thấy tánh, không nói dâm
dục. Nếu đã thấy tánh, dâm dục xưa nay vốn là không tịch. Không nhờ đoạn trừ
cũng không còn ưa thích. Vì sao ? Vì bản
tánh nó vốn thanh tịnh.Dâm dục, nếu thêm một thứ nó, Phật bảo thật khó tu
hành. Vậy mà chỉ nói thấy tánh, chẳng
nói trừ bỏ. Huống là trộm cắp, vẫn có đường lui dễ dàng.
Long Thọ, chẳng
nói trừ bỏ cũng chẳng nói thấy tánh, chỉ lập một phép Quán thân trong Tứ niệm xứ,
chỉ bày đốn trừ tham dục ở tâm. Nghiệp thân theo đó mà dừng. Trộm cắp nhất quyết
phải ngưng.
Không phải
chỉ có kiếp này : Tên trộm chẳng phải là kẻ tầm thường. Phàm phu thở ra biết
thở ra, thở vào biết thở vào, không việc còn có lúc quên. Có người, nhắc tới nhắc
lui bao bận, một việc đơn giản như thế làm vẫn không rồi, thở ra thở vào tà tà
lúc làm lúc không, không phải là thứ thiết yếu như việc kiếm tiền, làm đẹp, ngoại
giao, bạn bè. Vậy mà hai tuần hắn đã nhận ra. Nếu theo hơi thở thì không thể trộm.
Nếu trộm thì không thể theo hơi thở. Cho thấy tên trộm phản quan rất tốt. Quan
trọng là khi thở ra, kim cương không còn quan trọng, thở vào mọi thứ đều như sỏi
đá. Chỉ có chánh niệm, tỉnh giác. Hắn thấy yên lắng, thanh bình, tỏ tường mọi
việc. Một thứ không bao giờ có với nghề ăn trộm. Một nghề đu đưa thiên hạ trong
những hồi hộp lo âu v.v.. Tham dục không thể đặt người trong sự lặng an, tỉnh
táo, sáng suốt, chỉ có xáo động, nặng nề, mờ mịt.
Nhanh chóng
nhận ra như thế, cho thấy tập khí quán thân của hắn huân tập sâu dày hơn nghề
ăn trộm. Hắn, chẳng phải mới nhận Long Thọ làm thầy trong một kiếp này. Phu
nhân Thắng Man, khi nghe nhắc đến Như Lai, tâm sinh vui mừng tột bực. Khi được
gặp Phật, tâm càng quý kính. Chỉ muốn nương lực thiện căn sẵn có của mình, mong
nguyện Như Lai đời đời nhiếp thọ. Là do “ Ta
xưa cầu Bồ đề / Từng khai thị cho bà/nay bà gặp lại Ta/ Đời sau cũng vậy ”.
Tên trộm sờ bàn chân của Long Thọ, hắn thấy lòng rộng mở và hoan hỷ. Hắn khép
nép, chân thành, biết ơn, thấy kỳ diệu
và choáng váng. Khi chạm vào chân của Long Thọ, lần đầu tiên hắn cảm nhận được
sự hiện diện của đấng thiêng liêng. Bồ tát ra đời cách ấm còn mê, thân tướng đổi khác khiến người không
nhận ra nhau. Chỉ những gì từng lưu giữ trong tạng thức, mới giúp người tìm lại
nhau, thông qua những cảm xúc người từng lưu giữ.
Duyên đủ đầy,
mọi thứ thành tương thuận : Cái bát gỗ chẳng thể là phương tiện dùng độ tên
ăn trộm. Phải là cái bát vàng. Giúp thầy trò có cơ hội gặp nhau. Chủng tử tu tập
ngày xưa được khơi dậy nhanh chóng. Nghiệp xấu cũng buông bỏ dễ dàng.
Thánh nhân,
chẳng phải tu rồi, tác ý mọi thứ phải theo ý mình. Người xưa nói : “ Tùy duyên
tiêu nghiệp cũ” ắt phải có nguyên nhân. Tùy duyên là duyên thế nào cứ theo thế ấy
mà sống. Chỉ một tâm thanh tịnh là bất biến. Chẳng nói thiện, chẳng nói ác mà tất
cả không ngoài thiện nghiệp. Hiện tướng nếu là ác nghiệp, rốt sau vẫn là lợi
ích cho người. Cho nên, tùy duyên tiêu nghiệp cũ chẳng phải là hoạt vi của kẻ tập
nghiệp còn dày, tùy duyên chỉ là theo nghiệp mà đi.
Phàm phu ngụp
lặn trong biển nhân duyên mà luôn nghĩ mình là chủ nhân ông tạo tác tất cả,
thành công là do mình giỏi, mình tài v.v…Thánh nhân nhận ra, có nhân đủ duyên
thì có quả. Nhân này nối tiếp quả kia tạo thành dòng đời bất tận, chẳng có chủ
nhân, cũng chẳng phải chẳng có chủ nhân. Chẳng có chủ nhân bởi nhân đã có, đủ
duyên liền cho ra quả, con người là kẻ thừa tự những gì mình từng gây tạo. Thiện
nghiệp, ác nghiệp chính là đầu mối quyết định mọi thứ. Hạnh phúc, bất hạnh đều
từ nơi ấy mà ra. Chẳng phải chẳng có chủ nhân bởi con người chính là chủ nhân
gây tạo mọi nghiệp, vẫn còn được ít năng lực đối với hành vi của mình trong
dòng chuyển biến nhân duyên, hoặc nhẫn chịu, dừng lại, hoặc cứ buông trôi theo
dòng nhân duyên mình đã gây tạo.
Long Thọ tùy
duyên thọ nhận các pháp. Pháp nào cũng thành lợi ích cho người. Vật tầm thường,
lợi ích cho kẻ giàu sang. Vật giàu sang, lợi ích cho kẻ tầm thường. Pháp nào
qua tay cũng thành dịu dụng, do tâm không còn chấp trước . Thuận nhân thuận
duyên mà làm lợi ích cho người.
Trí tuệ và
định lực không lệ thuộc vào thân tướng bên ngoài.
Một tên trộm
không phải là kẻ có học thức. Lục Tổ chỉ là người đốn củi ven rừng. Không ai có
bằng cấp học vị, cũng không ai có danh
xưng cao cả. Nhưng cả hai đều nhận pháp và thực hành rất nhanh. Điều đó cho thấy
việc tiếp nhận Phật pháp không lệ thuộc vào
địa vị, thân tướng hay danh xưng mỗi người đang có. Nó lệ thuộc vào những
gì mỗi người từng huân tập trong quá khứ. Thứ gì được huân tập mạnh, thứ đó sẽ
bộc phát nhanh khi đủ duyên, không phân biệt đó là thiện nghiệp hay ác nghiệp.
Tuy thiện nghiệp khác ác nghiệp, nhưng lực hiện khởi khi đủ duyên dựa vào sự
huân tập mạnh yếu thì bình đẳng.
Sutasoma và
Brahmadatta là hai vương tử của nước Câu-lâu và Ba-la-nại. Theo lệ, trước khi
trở thành quốc vương, tất cả đều được gửi đến học pháp ở một vị danh sư. Suta chẳng bao lâu đạt đến tài năng giảng dạy
và trở thành thầy riêng của Brhma. Suta tiên đoán đại nạn sẽ xảy đến với Brhma
trong tương lai, nên trước khi chia tay, Suta dặn dò “ vào những ngày trăng non
và trăng tròn” phải giữ giới Bồ tát và không được sát sinh. Các vương tử đều đồng
ý tuân theo lời dặn.
Vua Brhma
chưa bao giờ ăn cơm mà không có thịt, vì thế để giữ ngày trai giới, quân hầu
thường lấy thịt cất riêng một nơi. Do người đầu bếp bất cẩn, bầy chó của hoàng
cung ăn hết. Sau đó, người đầu bếp không thể tìm ra thịt, nên phải lấy đỡ miếng
thịt đùi của một tử tù, nướng thật chín và dọn làm thức ăn.
Khi lát thịt
vừa chạm vào đầu lưỡi, toàn thân Brhma rúng động, do tiền kiếp Brhma đã từng là
quỷ Dạ xoa ăn thịt người. Ăn thịt người đã thành tập nghiệp ẩn sâu trong tạng
thức của Brhma. Giờ đủ duyên, tập ấy bùng phát. Vua quên hết những gì đã được học,
mê mải theo món thịt người, quên luôn lời dặn của Suta là không được sát sanh…
Thiện nghiệp
hay ác nghiệp, một khi đã được huân tập, đủ duyên đều bộc phát theo kiểu như thế.
Long Thọ không
quan tâm đến thân tướng và hành vi của tên trộm. Ông nhìn thấy ngọn nến có sẵn
trong hắn. Chỉ cần cho hắn một phương tiện từng huân tập mạnh, ngọn nến sẽ bùng
cháy và xua tan bóng tối. Mọi thứ sẽ hiện hình như cũ. Những gì mới huân tập nhất
định sẽ lui. Thực tế là ngọn nến được thắp lên và bóng tối tan đi, không cần phải
ngăn cấm bóng tối.
Pháp thở kỳ
diệu : “ Chỉ cần quán sát hơi thở…” là pháp Quán thân của Tứ niệm xứ, được
dạy trong kinh Trung bộ. Nguyên văn bài kinh như vầy : “ Tỳ
kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, ngồi kiết già,
lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác, vị ấy thở vô. Tỉnh giác,
vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở vô dài”. Thở ra dài, vị ấy tuệ
tri: “ Tôi thở ra dài”. Thở vô ngắn, vị ấy tuệ tri : “ Tôi thở vô ngắn”. Thở ra
ngắn, vị ấy tuệ tri:: “ Tôi thở ra ngắn”. cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô, vị
ấy tập. “ An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở vô”, vị ấy an tập: “ An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. Bài kinh dạy cho hàng Tỳ kheo, tuy vậy ai có
khả năng đều có thể nương đó tu tập. Yêu cầu để pháp tu đạt được kết quả tốt,
là cảnh yên, thân trang nghiêm và tâm tỉnh giác, nên nói rừng, nhà trống, ngồi
kiết già lưng thẳng và an trú trong chánh niệm. Kinh ghi từng chi tiết rất rõ
ràng. Còn hiểu tổng quát thì hơi thở vô ra thế nào, thấy đúng y như thế ấy.
Đang thở vô, biết đang thở vô. Đang thở ra, biết đang thở ra. Biết chỉ có một đối
tượng duy nhất là hơi thở, không để vọng tưởng xen vào, cũng không chuyển cái
biết qua đối tượng khác. Mục đích của pháp tu này là giúp tâm ghi nhận pháp
đúng như chúng đang là, không bị vọng tưởng chi phối. Cũng là giúp tâm ở trong
giây phút hiện tại, không trượt dài về quá khứ hay vị lai.
Phép quán đó,
giúp dừng bớt lực khởi của dòng vọng tưởng. Có màu sắc của Chỉ trong đó, nên nó
là nhân đưa đến Định. Có màu sắc của Quán trong đó, nên nó là nhân đưa đến Tuệ.
Pháp tu này
được Đại sư Trí Khải đời Tùy phương tiện thành pháp Sổ tức và Tùy tức trong Lục
diệu pháp môn. Lập thêm pháp Sổ tức vì chúng sanh có khi không thể một bước vào
thẳng phép Quán hơi thở như Phật đã dạy, phải mượn thêm việc đếm số giúp tâm tỉnh
giác. Sổ tức đó được diễn giải như sau : “ Hành
giả điều hòa hơi thở không mạnh không gấp, yên ổn, thong thả, đếm từ một đến mười,
nhiếp tâm tại số, không cho rong ruổi, gọi là tu Sổ tức ”. Hơi thở không mạnh
thì thân tâm không nhọc, an ổn. Hơi thở không gấp thì thân tâm thong thả, nhẹ
nhàng. Đếm từ một đến mười là hít vào thở ra đếm một, hít vào thở ra đếm hai
v.v… Đến mười, bắt đầu đếm lại. Gắt hơn, dành cho người vọng tưởng nhiều, thì
hít vào đếm một, thở ra đếm hai, hít vào đếm một… Thuần thục không nhầm lẫn là
thành tựu pháp Sổ tức. Nhưng thường thì lúc đầu vọng tưởng chen ngang khiến mọi
thứ thành lộn lạo. Lộn thì đếm lại từ đầu. Cho đến khi “ Hành giả biết tâm vận chuyển tự nhiên từ một đến mười, không cần gia
công, tâm trụ duyên nơi hơi thở, biết hơi thở rỗng nhẹ, tướng tâm lần lần tế nhị.
Ngại hơi thở là thô, không muốn đếm nữa, khi ấy hành giả nên bỏ Sổ tức tu
Tùy tức”. Đại sư gọi đó là chứng Sổ tức.
Chứng vì việc
đếm đó trở thành tự nhiên với hành giả tu thiền, không cần tác ý mà số đếm vẫn
không lộn, hơi thở ra vào nhẹ nhàng. Song đến đây không phải là hết việc. Chỉ
là điềm báo đến lúc chuyển pháp, nên nói “ ngại hơi thở là thô, không muốn đếm
nữa”. Như lớp học ồn náo cần một tiếng đập bàn của giáo viên để ổn định tiếng ồn.
Khi tiếng ồn đã ngưng thì pháp đập bàn cũng ngưng. Không, nó sẽ trở thành tiếng ồn. Đây cũng vậy. Ngưng
Sổ tức chuyển thành Tùy tức. Vẫn như những gì đã thực hiện trong Sổ tức, nhưng
bỏ việc đếm số, chỉ theo hơi thở ra vào, như pháp Quán thân đã dạy.
Lục diệu pháp môn diễn tả tu Tùy tức như sau : “ Xả pháp đếm hơi thở trước. Nhất tâm
nương theo hơi thở ra vào. Nhiếp tâm duyên hơi thở. Biết hơi thở vào, ra, trụ
tâm dứt các duyên, ý không phân tán, gọi là tu Tùy tức. Nhiếp tâm, trụ dứt các
duyên là yêu cầu thiết yếu đối với hành giả tu Tùy tức. Không đếm số nhưng
vẫn tỉnh giác, thấy hơi thở vô ra rõ ràng, vọng khởi thì tỉnh giác không theo,
chỉ một mực theo hơi thở ra vào.
Chứng Tùy tức
thì “ Tâm đã vi tế, an tịnh, không loạn,
biết hơi thở ngắn, dài, ra, vào khắp thân. Tâm và hơi thở nương nhau vận động một
cách tự nhiên. Ý nghĩ lóng đứng, lặng lẽ. Biết theo hơi thở là thô, tâm chán muốn
bỏ, như người mệt nhọc muốn ngủ, không ưa làm các việc, khi ấy hành giả nên xả
Tùy tức tu Chỉ. ”
Tên trộm đã chứng Tùy tức trong vòng mười lăm ngày, tâm
không còn dính mắc với kim cương, vàng, bạc. Chỉ một trời bình yên tỉnh giác. Cớ
gì không dùng cái có sẵn, vừa tốt hơn gấp bội mà phải theo đuổi những thứ đã thấy
nhọc thân, khổ trí, vô bổ ? Cho nên hắn buông nghề ăn trộm. Thế là Long Thọ nhận
lại đệ tử. Thế gian thêm một kẻ “ trần trụi” để thiện nghiệp của nhân sinh thêm
phong phú, khổ đau không còn chỗ đứng ở thế gian. Ta bà lại hiện tướng Hoa
Nghiêm của chư Phật.
Nguyện mọi
người hưởng được bình an và hạnh phúc do thực hành chánh nghiệp, chánh mạng mà
ra.
(
Trích NSGN số 296- 11-2020- của Chân Hiền Tâm )
0 nhận xét:
Đăng nhận xét