Thứ Tư, 2 tháng 11, 2022

MƯỜI HẠNH PHỔ HIỀN

 

MƯỜI HẠNH PHỔ HIỀN

          Đệ tử chúng đẳng, tùy thuận tu tập, Phổ Hiền Bồ tát, thập chủng đại nguyện.

 Nhất giả lễ kính chư Phật

 Nhị giả xưng tán Như Lai

Tam giả quảng tu cúng dường

Tứ giả sám hối nghiệp chướng

Ngũ giả tùy hỷ công đức

Lục giả thỉnh chuyển pháp luân

Thất giả thỉnh Phật trụ thế

Bát giả thường tùy Phật học

Cửu giả hằng thuận chúng sanh

Thập giả phổ giai hồi hướng

          Trong Phật giáo Bắc Tông thường đề cập đến các vị phật ở quá khứ và tương lai còn nêu lên tên các vị Bồ Tát. Danh hiệu các vị Bồ tát trong kinh điển Đại thừa chúng ta thường nghe như Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Phổ Hiền, Bồ tát Quan Âm, Bồ tát Đại Thế Chí. Bồ Tát Địa Tạng v.v.  Đứng trên mặt sự tướng chúng ta tin có các vị Bồ tát như thế, nhưng đứng về mặt tự tánh, thì các vị Bồ tát ấy đều là những khí chất có sẵn trong tự tâm chúng ta. Như Văn Thù là tiêu biểu cho Trí tuệ, Phổ Hiền tiêu biểu cho công hạnh, hay Văn Thù chỉ cho Lý, Phổ Hiền tiểu biểu cho Sự. Quan Âm tiêu biểu cho Từ bi, Thế Chí tiêu biểu cho Nghị lực, sự tinh tấn. Địa Tạng  tiêu biểu hạnh nhẫn nhục.  Năm vị Bồ tát này gồm thâu ba đức Bi,Trí, Dũng trong mỗi tự tánh con người.

          Như vậy,  mười hạnh Phổ Hiền là mười điều phát nguyện của mỗi một hành giả tu theo Đại thừa, nguyện thực hành mười điều này trong thời gian tu học từ phàm phu cho đến Phật quả. Mười hạnh nguyện là lộ trình tu tập của mỗi hành giả chứ không riêng cuả Bồ tát Phổ Hiền, mỗi người phải luôn tâm niệm mười hạnh nguyện này không luận thời gian không gian và con người.

          Đệ tử chúng đẳng : Chúng là số đông người; Đẳng là bao gồm sáu chúng đệ tử Phật : Tỳ kheo, Tỳ kheo ny, Sa di, Sa di ni, Thước xoa, Ưu bà Tắc và Ưu bà di, đều thực hành mười nguyện này.

          Tùy thuận tu tập  : Luôn luôn thực tập bất cứ thời gian nào, không gian nào.

Thập chủng đại nguyện : Mười đại nguyện, Đại ở đây không có tính cách so sánh, đại với tiểu, lớn với nhỏ, mà Đại có tính cách ứng dụng phổ quát trong tất cả thời gian và không gian, ở đâu bất cứ lúc nào, thế gọi là Đại.

Phổ Hiền Bồ Tát :  Phổ Hiền, Phổ là rộng khắp, Hiền là hiền thiện, nhuần nhuyễn, không khiếm khuyết, không bỏ sót.   Bồ Tát là hạnh lợi tha, luôn nghĩ đến mọi người, luôn muốn đem những điều tốt đẹp đến cho mọi người, hướng đến con đường ra khỏi khổ đau sanh tử.

1/ Nhất giả lễ kính chư Phật : nghĩa là thực hành hạnh khiêm cung, hãy xem tất cả chúng sanh đều là Phật, vì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nên chúng sanh đều là Phật sẽ thành, nên phải có tâm cung kính. Tức thực hành hạnh khiêm cung để trừ tâm ngã mạn cống cao.

2/ Nhị giả xứng tán Như Lai : Như Lai là tên khác của Phật, Như Lai là nói sao làm vậy. Như Lai nghĩa là Như thật. Xưng tán Như Lai là tôn trọng sự thật. Như Lai có nhiều nghĩa : Sống trong năm dục không bị uế nhiễm gọi là Như Lai. Như Lai tức chư pháp như nghĩa. Như Lai tùng vô sở lai, diệc vô sở khứ, Như Lai không đến từ đâu và cũng không đi về đâu. Như Lai là đoạn trừ tham, sân, si, mạn..

          Như Lai là tôn trọng sự thật, chế ngự cái tâm giả dối, cái tâm không chân thật.

3/ Quảng tu cúng dường : Cúng dường là hình thức Bố thí tức chế ngự cái tâm keo kiệt, bỏn sẻn. Bố thí có ba lãnh vực : Tài thí, pháp thí và vô úy thí. Tài thí gồm nội tài và ngoại tài.

Pháp thí, pháp đây là chỉ cho mọi sự mọi vật gọi là pháp. Làm tất cả những gì có lợi cho chúng sanh cũng gọi là pháp thí, nói những lời nghe an lạc, hoan hỷ, đem lại sự bình an cho người khác cũng là pháp thí. Nói những điều lợi ích an lạc, không phải nói nhiều là người có trí, mà nói đúng lúc, đúng chỗ nói có lợi ích, như thế gọi là pháp thí.  Thực hành hạnh bố thứ là trừ cái tâm tham lam, bỏn sẻn, cũng là giảm cái ngã và ngã sở, nuôi dưỡng tâm từ bi, tích lũy thiện nghiệp phòng cận tử nghiệp xấu.

          Vô úy thí là làm cho chúng sanh không sự hãi, lo buồn gọi là vô úy thí. Ngược lại hăm dọa, nói những điều tà kiến khiến họ thêm lo, thêm sợ như tuổi xấu, tuổi khắc, mắc căn, mắc nghiệp, ngày xấu ngày thọ tử, ngày trùng, nhương sao giải hạn, hay không hợp với phương hướng v.v gây cho họ một sự sợ hãi lo lắng, những điều tà kiến như thế đem lại sự sợ hãi lo buồn cho chúng sanh.

          Bố thí là pháp chế ngự tâm keo kiệt bỏn sẻn, chế ngự tâm lý tà kiến. Nuôi dưỡng từ tâm, tích lũy thiện nghiệp, chuyển hóa tâm tham lam thành tâm vô tham vô sân.

4/ Tứ giả sám hối nghiệp chướng : Nghĩa là nguyện bỏ ác làm lành; Hà nhơn vô tội hà giả vô khiên, sống trên đời này không ai là không tội lỗi. Sám hối gọi là sám ma và hối quá, nghĩa là ăn năng lỗi trước, chừa bỏ lỗi sau. Có hai hạnh là Tàm và Quý, tức là xấu hỗ với việc ác đã làm và sợ hãi những việc ác đã gây ra. Sám hối giúp tâm ta an lạc tăng thêm nghị lực, hóa giải tâm lý mặc cảm. Trong kinh nói có hai hạng người mạnh nhất là  một là hạng người không làm ác, hai là hạng người đã làm ác mà biết ăn năng  sám hối nguyện chừa bỏ những điều sai lầm.

          Tức nguyện tránh chừa các điều ác thực hành những điều lành.

5/ Tùy hỷ công đức : Tức chế ngự cái tâm ganh ghét, tâm đố kỵ. Thực hiện tâm hoan hỷ, vui cái vui của người khác, hoan hỷ với cái thành tựu của người khác. Khắc phục cái tâm phân biệt, ích kỷ. Thực hiện tâm từ, bi, hỷ, xả. khoang dung độ lượng.

6/ Lục giả thỉnh chuyển pháp luân : Đối với mọi người nguyện đem giáo pháp vào đời, đem đạo vào đời. Đối với tự thân áp dụng lời Phật dạy vào trong cuộc sống của mình, như vậy gọi là chuyển pháp luân.

          Thực hiện lời dạy của Phật vào trong cuộc sống, tức là giá trị của con người không phải là cái đang có, mà là cái ta đang sống, là giá trị của hành động Từ bi, hỷ xả . Giá trị của người tu là vô tham, vô sân, vô si.

          Tức nguyện làm cho Phật pháp luôn có mặt trong cuộc đời, nguyện cầu Phật pháp cửu trụ thế gian để chúng sanh thoát khổ được vui.

7/ Thất giả thỉnh Phật trụ thế : là Phát tâm Bồ đề, trên cầu Phật đạo dưới cứu độ chúng sanh. Là làm cho tự tánh hiện lộ, làm cho Phật tánh phát khởi, hay phát khởi thiện tâm, phát tâm làm nhiều điều tốt đẹp đến với mọi người. Mỗi người trong tâm có Phật tánh, làm sao tâm Phật luôn thể hiện trong cuộc sống.  Chúng sanh có 10 tâm : Phật tâm, Bồ tát tâm, Thinh văn, Duyên giác, Trời, người, A tu la, Địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Kinh Hoa Nghiêm Phật nói : “ Quên mất tâm Bồ đề, mà làm các thiện nghiệp, các việc làm ấy là ma nghiệp” quên mất mà còn hại như vậy huống là không phát.

8/ Bát giả thường tùy Phật học: luôn có tâm cầu học hỏi phật pháp, không bao giờ gián đoạn, tức thực hành hạnh Tinh tấn tâm mong cầu giác ngộ giải thoát. Việc cần cầu học hỏi Phật pháp là sự nghiệp của người tu, chứ không phải chùa to Phật lớn, đệ tử đông, bằng cấp nhiều, địa vị cao là sự nghiệp. Chế ngự tâm giải đãi.

9- Cửu giả hằng thuận chúng sanh  : Tâm luôn nghĩ đến chúng sanh, tùy thuận chúng sanh để hóa độ họ, lấy cái tâm chúng sanh làm tâm mình, lấy cái ước nguyện chúng sanh làm cái ước muốn của mình. Nếu lấy tâm mình áp đặt cho người khác thì sự bất hòa xung đột xảy ra. Vì thế Bồ tát tùy thuận chúng sanh để hướng dẫn chúng sanh đến bờ giải thoát.

10- Thập giả phổ giai hồi hướng : Đem 9 điều trên hồi hướng về quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Tức hồi hướng đến quả vị thành Phật. Vì thế sau các thời tụng kinh đều đọc 4 câu: Nguyện đem công đức này, hướng về khắp tất cả, đệ tử và chúng sanh đều thành Phật đạo.

                 TÓM MƯỜI NGUYỆN TRÊN

1/ Lễ kính   :  Thực hành hạnh khiêm cung  - 2 Xưng tán :   Tôn trọng sự thật

3/ Cúng dường :  Hạnh bố thí-  trừ tâm tham chấp-  4/  Sám hối : bỏ ác làm lành. 5/  Tùy hỷ :  chế ngự tâm đố kỵ   6/  chuyển pháp luân : Đem đạo vào đời- áp dụng lời phật dạy trong cuộc sống - 7/  Thỉnh Phật trụ thế : phát huy Phật tánh, hiển lộ tự tánh. 8/  Thường tùy Phật học : siêng cầu học hỏi Phật pháp. 9/ Hằng thuận chúng sanh  : Luôn nghĩ đến mọi người, hướng mọi người đến con đường giác ngộ. 10/ Tất cả quy về quả vị vô thượng Bồ đề.

MƯỜI HẠNH PHỔ HIỀN Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét