MƯỜI HẠNH PHỔ HIỀN
Đệ tử chúng đẳng,
tùy thuận tu tập, Phổ Hiền Bồ tát, thập chủng đại nguyện.
Nhất giả lễ kính chư Phật
Nhị giả xưng tán Như Lai
Tam
giả quảng tu cúng dường
Tứ
giả sám hối nghiệp chướng
Ngũ
giả tùy hỷ công đức
Lục
giả thỉnh chuyển pháp luân
Thất
giả thỉnh Phật trụ thế
Bát
giả thường tùy Phật học
Cửu
giả hằng thuận chúng sanh
Thập
giả phổ giai hồi hướng
Trong
Phật giáo Bắc Tông thường đề cập đến các vị phật ở quá khứ và tương lai còn nêu
lên tên các vị Bồ Tát. Danh hiệu các vị Bồ tát trong kinh điển Đại thừa chúng
ta thường nghe như Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Phổ Hiền, Bồ tát Quan Âm, Bồ tát Đại
Thế Chí. Bồ Tát Địa Tạng v.v. Đứng trên
mặt sự tướng chúng ta tin có các vị Bồ tát như thế, nhưng đứng về mặt tự tánh,
thì các vị Bồ tát ấy đều là những khí chất có sẵn trong tự tâm chúng ta. Như
Văn Thù là tiêu biểu cho Trí tuệ, Phổ Hiền tiêu biểu cho công hạnh, hay Văn Thù
chỉ cho Lý, Phổ Hiền tiểu biểu cho Sự. Quan Âm tiêu biểu cho Từ bi, Thế Chí
tiêu biểu cho Nghị lực, sự tinh tấn. Địa Tạng
tiêu biểu hạnh nhẫn nhục. Năm vị
Bồ tát này gồm thâu ba đức Bi,Trí, Dũng trong mỗi tự tánh con người.
Như
vậy, mười hạnh Phổ Hiền là mười điều
phát nguyện của mỗi một hành giả tu theo Đại thừa, nguyện thực hành mười điều
này trong thời gian tu học từ phàm phu cho đến Phật quả. Mười hạnh nguyện là lộ
trình tu tập của mỗi hành giả chứ không riêng cuả Bồ tát Phổ Hiền, mỗi người phải
luôn tâm niệm mười hạnh nguyện này không luận thời gian không gian và con người.
Đệ
tử chúng đẳng : Chúng là số đông người; Đẳng là bao gồm sáu chúng đệ tử Phật
: Tỳ kheo, Tỳ kheo ny, Sa di, Sa di ni, Thước xoa, Ưu bà Tắc và Ưu bà di, đều
thực hành mười nguyện này.
Tùy
thuận tu tập : Luôn luôn thực tập bất
cứ thời gian nào, không gian nào.
Thập chủng đại nguyện : Mười đại nguyện, Đại ở đây
không có tính cách so sánh, đại với tiểu, lớn với nhỏ, mà Đại có tính cách ứng
dụng phổ quát trong tất cả thời gian và không gian, ở đâu bất cứ lúc nào, thế gọi
là Đại.
Phổ Hiền Bồ Tát :
Phổ Hiền, Phổ là rộng khắp, Hiền là hiền thiện, nhuần nhuyễn, không khiếm
khuyết, không bỏ sót. Bồ Tát là hạnh lợi
tha, luôn nghĩ đến mọi người, luôn muốn đem những điều tốt đẹp đến cho mọi người,
hướng đến con đường ra khỏi khổ đau sanh tử.
1/ Nhất giả lễ kính chư Phật
: nghĩa là thực hành hạnh khiêm cung, hãy xem tất cả chúng sanh đều là Phật, vì
tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nên chúng sanh đều là Phật sẽ thành, nên phải
có tâm cung kính. Tức thực hành hạnh khiêm cung để trừ tâm ngã mạn cống cao.
2/ Nhị giả xứng tán Như Lai
: Như Lai là tên khác của Phật, Như Lai là nói sao làm vậy. Như Lai nghĩa là
Như thật. Xưng tán Như Lai là tôn trọng sự thật. Như Lai có nhiều nghĩa : Sống
trong năm dục không bị uế nhiễm gọi là Như Lai. Như Lai tức chư pháp như nghĩa.
Như Lai tùng vô sở lai, diệc vô sở khứ, Như Lai không đến từ đâu và cũng không
đi về đâu. Như Lai là đoạn trừ tham, sân, si, mạn..
Như
Lai là tôn trọng sự thật, chế ngự cái tâm giả dối, cái tâm không chân thật.
3/ Quảng tu cúng dường :
Cúng dường là hình thức Bố thí tức chế ngự cái tâm keo kiệt, bỏn sẻn. Bố thí có
ba lãnh vực : Tài thí, pháp thí và vô úy thí. Tài thí gồm nội tài và ngoại tài.
Pháp thí, pháp đây là chỉ cho mọi
sự mọi vật gọi là pháp. Làm tất cả những gì có lợi cho chúng sanh cũng gọi là
pháp thí, nói những lời nghe an lạc, hoan hỷ, đem lại sự bình an cho người khác
cũng là pháp thí. Nói những điều lợi ích an lạc, không phải nói nhiều là người
có trí, mà nói đúng lúc, đúng chỗ nói có lợi ích, như thế gọi là pháp thí. Thực hành hạnh bố thứ là trừ cái tâm tham
lam, bỏn sẻn, cũng là giảm cái ngã và ngã sở, nuôi dưỡng tâm từ bi, tích lũy
thiện nghiệp phòng cận tử nghiệp xấu.
Vô úy thí là làm cho chúng
sanh không sự hãi, lo buồn gọi là vô úy thí. Ngược lại hăm dọa, nói những điều
tà kiến khiến họ thêm lo, thêm sợ như tuổi xấu, tuổi khắc, mắc căn, mắc nghiệp,
ngày xấu ngày thọ tử, ngày trùng, nhương sao giải hạn, hay không hợp với phương
hướng v.v gây cho họ một sự sợ hãi lo lắng, những điều tà kiến như thế đem lại
sự sợ hãi lo buồn cho chúng sanh.
Bố
thí là pháp chế ngự tâm keo kiệt bỏn sẻn, chế ngự tâm lý tà kiến. Nuôi dưỡng từ
tâm, tích lũy thiện nghiệp, chuyển hóa tâm tham lam thành tâm vô tham vô sân.
4/ Tứ giả sám hối nghiệp chướng
: Nghĩa là nguyện bỏ ác làm lành; Hà nhơn vô tội hà giả vô khiên, sống trên đời
này không ai là không tội lỗi. Sám hối gọi là sám ma và hối quá, nghĩa là ăn
năng lỗi trước, chừa bỏ lỗi sau. Có hai hạnh là Tàm và Quý, tức là xấu hỗ với
việc ác đã làm và sợ hãi những việc ác đã gây ra. Sám hối giúp tâm ta an lạc
tăng thêm nghị lực, hóa giải tâm lý mặc cảm. Trong kinh nói có hai hạng người mạnh
nhất là một là hạng người không làm ác,
hai là hạng người đã làm ác mà biết ăn năng
sám hối nguyện chừa bỏ những điều sai lầm.
Tức
nguyện tránh chừa các điều ác thực hành những điều lành.
5/ Tùy hỷ công đức : Tức chế
ngự cái tâm ganh ghét, tâm đố kỵ. Thực hiện tâm hoan hỷ, vui cái vui của người
khác, hoan hỷ với cái thành tựu của người khác. Khắc phục cái tâm phân biệt,
ích kỷ. Thực hiện tâm từ, bi, hỷ, xả. khoang dung độ lượng.
6/ Lục giả thỉnh chuyển pháp
luân : Đối với mọi người nguyện đem giáo pháp vào đời, đem đạo vào đời. Đối
với tự thân áp dụng lời Phật dạy vào trong cuộc sống của mình, như vậy gọi là
chuyển pháp luân.
Thực
hiện lời dạy của Phật vào trong cuộc sống, tức là giá trị của con người không
phải là cái đang có, mà là cái ta đang sống, là giá trị của hành động Từ bi, hỷ
xả . Giá trị của người tu là vô tham, vô sân, vô si.
Tức
nguyện làm cho Phật pháp luôn có mặt trong cuộc đời, nguyện cầu Phật pháp cửu
trụ thế gian để chúng sanh thoát khổ được vui.
7/ Thất giả thỉnh Phật trụ thế
: là Phát tâm Bồ đề, trên cầu Phật đạo dưới cứu độ chúng sanh. Là làm cho tự
tánh hiện lộ, làm cho Phật tánh phát khởi, hay phát khởi thiện tâm, phát tâm
làm nhiều điều tốt đẹp đến với mọi người. Mỗi người trong tâm có Phật tánh, làm
sao tâm Phật luôn thể hiện trong cuộc sống.
Chúng sanh có 10 tâm : Phật tâm, Bồ tát tâm, Thinh văn, Duyên giác, Trời,
người, A tu la, Địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Kinh Hoa Nghiêm Phật nói : “
Quên mất tâm Bồ đề, mà làm các thiện nghiệp, các việc làm ấy là ma nghiệp” quên
mất mà còn hại như vậy huống là không phát.
8/ Bát giả thường tùy Phật học:
luôn có tâm cầu học hỏi phật pháp, không bao giờ gián đoạn, tức thực hành hạnh
Tinh tấn tâm mong cầu giác ngộ giải thoát. Việc cần cầu học hỏi Phật pháp là sự
nghiệp của người tu, chứ không phải chùa to Phật lớn, đệ tử đông, bằng cấp nhiều,
địa vị cao là sự nghiệp. Chế ngự tâm giải đãi.
9- Cửu giả hằng thuận chúng
sanh : Tâm luôn nghĩ đến chúng sanh,
tùy thuận chúng sanh để hóa độ họ, lấy cái tâm chúng sanh làm tâm mình, lấy cái
ước nguyện chúng sanh làm cái ước muốn của mình. Nếu lấy tâm mình áp đặt cho
người khác thì sự bất hòa xung đột xảy ra. Vì thế Bồ tát tùy thuận chúng sanh để
hướng dẫn chúng sanh đến bờ giải thoát.
10- Thập giả phổ giai hồi hướng
: Đem 9 điều trên hồi hướng về quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Tức hồi
hướng đến quả vị thành Phật. Vì thế sau các thời tụng kinh đều đọc 4 câu: Nguyện
đem công đức này, hướng về khắp tất cả, đệ tử và chúng sanh đều thành Phật đạo.
TÓM MƯỜI NGUYỆN TRÊN
1/ Lễ kính : Thực
hành hạnh khiêm cung - 2 Xưng tán : Tôn trọng sự thật
3/ Cúng dường : Hạnh bố thí-
trừ tâm tham chấp- 4/ Sám hối : bỏ ác làm lành. 5/ Tùy hỷ :
chế ngự tâm đố kỵ 6/ chuyển pháp luân : Đem đạo vào đời- áp dụng lời
phật dạy trong cuộc sống - 7/ Thỉnh Phật
trụ thế : phát huy Phật tánh, hiển lộ tự tánh. 8/ Thường tùy Phật học : siêng cầu học hỏi Phật
pháp. 9/ Hằng thuận chúng sanh : Luôn
nghĩ đến mọi người, hướng mọi người đến con đường giác ngộ. 10/ Tất cả quy về
quả vị vô thượng Bồ đề.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét