ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO VỚI NỀN VĂN HÓA VIỆT
NAM
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, có cả tôn giáo nội sinh và ngoại
lai, việc tiếp nhận các tôn giáo ngoại lai trong đó có Công giáo có sự gắn liền
với hoàn cảnh chính trị xã hội, về lịch sử tiếp nhận và những yếu tố khác.
Trong mấy thế kỷ Việt Nam tiếp xúc và giao lưu với Phương Tây, bên cạnh
Công giáo, ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đã tác động một cách khá sâu rộng
vào nhiều lãnh vực văn hóa vật chất và tinh thần người Việt Nam. Tùy từng lúc
từng nơi, thái độ của người Việt Nam có khác nhau, chấp nhận hay chống đối,
nhưng cuối cùng bao giờ cũng là sự thâu hóa linh hoạt, tiếp nhận những gì có
ích và biến đổi cho phù hợp với tính cách Việt Nam và nhu cầu Việt Nam. So với
Phật giáo và Khổng giáo du nhập vào Việt Nam muộn hơn, mang đậm nét văn hóa
phương Tây nhưng cũng đã đóng góp nhiều mặt tích cực tạo nên những nét văn hóa
Công giáo rất riêng biệt.
Về thời gian, Việt Nam tiếp xúc với Công giáo và văn hóa Công giáo từ khá
lâu. Trong đó tính cách quốc tế của việc truyền giáo ở Việt Nam đã dẫn đến
những điều kiện thuận lợi để người Việt Nam tiếp thu văn minh phương Tây và văn
hóa Công giáo. Các loại hình văn hóa mới ở Việt Nam tương đối tiêu biểu ở hình
loại và những kết quả trong thực tiễn, từ kiến trúc, nghề in, báo chí, văn học,
đến sân khấu, kịch, điêu khắc, nghệ thuật v.v.. đã xuất hiện nhiều nét mới lạ.
Cùng với thời gian dần dần Công giáo trở thành mạch sống bên trong bản sắc dân
tộc.
1/ Công giáo vào Việt Nam
Cũng như các tôn giáo khác, Công giáo xem việc truyền đạo là sứ mạng
thiêng liêng và thường trực. Ngay từ rất sớm với lời thúc dục hãy đi khắp trái
đất và giảng phúc âm cho mọi người. Bằng các hoạt động truyền giáo, Công giáo
từ một tôn giáo địa phương nhanh chóng trở thành tôn giáo của đế chế La Mã, và
từ tôn giáo của đế chế La Mã trở thành tôn giáo của châu Âu. Với những phát
kiến địa lý thời kỳ cận đại đã mở ra những triển vọng lớn lao cho việc mở rộng
nước Chúa đến những miền đất ngoại trong đó có Việt Nam.
Tình hình Việt Nam từ thế kỷ thứ 17 đến thế kỷ thứ 18 có nhiều xáo trộn
và diễn biến phức tạp. Nội bộ giai cấp thống trị lục đục vì sự tranh chấp quyền
lực dẫn đến sự chia cắt đất nước kéo dài từ năm 1645 đến năm 1692, sau đó là
cuộc nội chiến giữa Nguyễn Ánh và quân Tây Sơn và sự phục hồi của nhà Nguyễn đầu thế kỷ thứ 19. Những điều
đó đã làm cho kinh tế trì trệ và gián đoạn, chính trị thì hỗn độn, đời sống
nhân dân thì đói khổ lầm than, nhân tâm thì
giao động ly tán, tạo thuận lợi cho việc thâm nhập truyền bá Công giáo
cũng như việc dòm ngó chinh phục của chủ nghĩa tư bản phương Tây.
Từ những thập niên đầu của thế kỷ 16 ở Việt Nam đã có những giáo sĩ
phương Tây đến truyền giáo. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép
rằng: Năm Nguyên hòa đời vua Lê Trang Tông (1533- Tây lịch) có một thương nhân
là Inikhu đi đường biển vào giảng đạo Gia Tô ở Ninh Cường, Quần Anh thuộc huyện
Nam Chấn và làng Trà Lũ thuộc huyện Giao Thủy. Nhiều nhà nguyên cứu lịch sử
Công giáo lấy năm 1533 là thời mốc đánh dấu việc truyền Công giáo vào Việt Nam.
Tiếp đó 1550 tại Hà Tiên, 1558, 1583 có các Linh Mục đến truyền giáo tại ven
biển Quảng Ninh…Thời kỳ 1533 đến 1614 chủ yếu các giáo sĩ dòng Phan xin cô
thuộc dòng Bồ Đào Nha và dòng Đa Minh thuộc Tây Ban Nha đi theo những thuyền
buôn vào nước ta, nhưng do không quen thông thổ, chưa thạo ngôn ngữ nên việc
truyền giáo không mấy kết quả. Từ năm 1615 đến năm 1665 các giáo sĩ dòng Tên
thuộc Bồ Đào Nha từ Ma Cao (Trung Quốc) vào Việt Nam hoạt động ở cả Đàng Trong
(nam sông Gianh), Đàng Ngoài (bắc sông Gianh). Những giáo sĩ dòng Tên tỏ ra
thông thạo tiếng Việt lại hoạt động khôn khéo nên mặc dù gặp khó khăn phức tạp
nhưng họ đã thu hút được nhiều người theo đạo. Theo tài liệu của giáo hội, sau
37 năm truyền giáo ở Đàng Ngoài với 25 linh mục, 5 trợ sĩ và 50 năm truyền giáo
ở Đàng Trong với 39 linh mục, các giáo sĩ dòng Tên đã phát triển được 100 ngàn
tín đồ. Khi đạo phát triển, các giáo sĩ dòng Tên nghĩ đến việc cần có các giám mục phụ trách để thúc đẩy công
cuộc truyền giáo ở bước cao hơn. Năm 1659, Giáo hoàng Alec-xăng-đrơ VII đã
thành lập 2 Giáo phái đầu tiên ở Việt Nam và phong hai người Pháp Francois-
Paullu và Lambert de la Motte làm giám mục phụ trách truyền đạo ở Đông Dương. Như vậy, thế kỷ 16-17 là
thời kỳ truyền giáo của các giáo sĩ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Càng về sau các
giáo sĩ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha càng lu mờ, trong khi các giáo sĩ Pháp ngày
càng mạnh nhất là sau khi Hội Thừa sai Paris ra đời.
Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội nước ta thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 tiếp
tục có nhiều biến động phức tạp càng tạo nhiều điều kiện cho sự bành trướng của
Hội Thừa sai Pari. Thời kỳ này các giáo sĩ hoạt động rất ráo riết, đóng góp
tích cực vào việc truyền bá đạo Công giáo vào Việt Nam.
Thời kỳ này thực dân Pháp âm mưu xâm lược Việt Nam, đe dọa nền độc lập
dân tộc. Đây là lý do chính trị chủ yếu và trực tiếp, bên cạnh các lý do tư
tưởng, tôn giáo và văn hóa để dẫn đến các vua chúa phong kiến Việt Nam nghi
ngại cấm đạo, bức đạo quyết liệt. Chỉ tính riêng ba đời vua của triều Nguyễn là
Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức có tất cả 14 sắc chỉ cấm Công giáo. Đặc biệt vào
thời điểm trước và sau khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam (đời vua Tự
Đức) việc cấm đạo trở nên gay gắt quyết liệt.
Bên cạnh các hoạt động cấm đạo của triều đình, còn có phong trào Bình tây
sát tả chủ yếu ở miền Trung do các văn thân sĩ phu lãnh đạo chống lại đạo Công
giáo chủ yếu từ góc độ tư tưởng, văn hóa, bắt đầu từ năm 1862, khi trều đình
nhà Nguyễn cắt ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp, kéo dài cho đến tận năm 1888.
Sau khi chiếm được Việt Nam, nhất là từ khi thiết lập được chế độ thống trị, gần như là để đền đáp công
lao Hội Thừa sai Pari, Pháp ban cho các giáo sĩ Thừa sai nhiều đặc quyền đặc
lợi. Uy thế của giáo hội được đề cao, các giáo sĩ trở thành những người có thế
lực lớn trong xã hội lúc bấy giờ. Nhờ những điều kiện thuận lợi về mặt vật chất
và tinh thần do chính quyền Pháp đưa lại hàng ngàn cơ sở tôn giáo được triển
khai xây dựng, số tín đồ ngày càng tăng nhanh.
Sau bốn thế kỷ truyền giáo, tới nay đạo Công giáo ở Việt Nam có hơn 6
triệu tín đồ. Thâm nhập vào Việt Nam giữa lúc chế độ phong kiến đang khủng
hoảng trầm trọng, nạn đói kém tràn lan, đạo Công giáo trở thành chổ dựa tinh
thần cho người dân đang cần niềm an ủi.
Với truyền thống bao dung, người Việt Nam dễ dàng chấp nhận mọi tôn giáo ngoại
lai miễn là nó phù hợp và đến với thiện chí hòa bình. Thêm vào đó, Công giáo là
một tôn giáo mang đậm tính cách cứng rắn của truyền thống văn hóa phương Tây,
do vậy trong một thời gian dài mới hòa đồng với văn hóa Việt Nam.
Sự hội nhập văn hóa công
giáo với văn hóa Việt Nam
Nền văn hóa của một dân tộc được ví như những tấm vải muôn màu mà những
sợi chỉ dọc là những cốt lõi văn hóa chính của dân tộc đó, trong khi những sợi
chỉ ngang là những đón nhận qua nhiều thế hệ. Như vậy tam giáo đã dệt nên những
sợi chỉ ngang muôn màu trong quá trình phát triển của văn hóa Việt Nam. Khi đạo
Công giáo hiện diện ở Việt Nam thì đã có một yếu tố mới làm giàu cho văn hóa
Việt Nam. Trong bài viết của giáo sư sử
học Phạm Cao Dương, một học giả không Công giáo đã viết “ Ngày nay người ta
không thể nói tới văn hóa của dân tộc Việt Nam hay cuộc sống của người Việt Nam
trong bất cứ phạm vi nào mà không nói tới sự hiện diện, vai trò và sự đóng góp
của Đạo Công giáo, dù đó là cuộc sống ở trong nước hay ngoài nước ”.
Công giáo là tôn giáo giúp cho con người cảm nhận được cuộc sống thực tại
bằng những văn hóa, kỷ thuật khoa học,
kiến trúc, điêu khắc, hội họa v.v...những điều mới lạ mà văn hóa Việt
Nam chưa có. Với kỹ thuật tân tiến điện đài máy móc, hàng hóa, đội ngũ con
người chịu khó chịu cực mở mang nước Chúa, với đời sống cơ cực khổ nhọc của
người dân Việt, nhân tâm khủng hoảng hoàng cảnh nghèo thiếu là cơ hội đạo Công
giáo thâm nhập vào văn hóa dân tộc.
Niềm tin Công giáo tháp nhập vào nền văn hóa Việt Nam, vì nó có những
điểm tương đồng với văn hóa Việt, mỗi khi đau khổ người ta kêu trời vái đất,
đồng nghĩa với cầu sự gia hộ của Chúa cứu thế. Trong Công giáo, bí tích Rửa tội
là cửa ngỏ đầu tiên của người tín hữu gia nhập vào cộng đoàn dân Chúa, thì nghi
lễ cáo gia tiên trong văn hóa Việt là cửa ngỏ cho những thành viên mới gia nhập
vào cộng đồng gia tộc, làng nước. Nếu trong đạo Công giáo, một chút bánh, chút
rượu và lời truyền phép của vị linh mục làm nên thực tại Thiên Chúa hiện diện
nơi bí tích Thánh Thể, thì trong phong tục cúng vái Việt Nam, một nén hương,
đĩa xôi, chút rượu trước hương án ông bà tổ tiên thiết lập được tương quan linh
thiêng giữa cõi dương và cõi âm. Qua bí tích Hôn nhân Công giáo, đôi nam nữ
được chính thức công nhận là vợ chồng trước mặt giáo hội và Thiên Chúa, thì qua
những tục lệ cưới hỏi Việt Nam, họ cũng được gia tộc, xã hội, làng nước công
nhận là đôi vợ chồng. Có thể nói, chính nhờ cảm thức về “cái thiêng ” mà văn
hóa Việt Nam có những sự tương đồng rất gần với những thực tại Công giáo.
Trong việc hội nhập Công giáo vào văn hóa Việt, một trong yếu tố quan
trọng và nền tảng văn hóa đó là đạo hiếu, hay tinh thần hiếu thảo đối với cha
mẹ, ông bà tổ tiên. Vì người Việt cũng như các dân tộc Á Đông luôn luôn đặt
nặng tinh thân hiếu thảo đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên. Từ nguồn cội, đạo hiếu
luôn luôn là một nền tảng căn bản cho đạo làm người của người Việt Nam, và nằm
trong bản chất văn hóa của người Việt. Vì thế việc hội nhập văn hóa Công giáo
vào Việt Nam cũng khởi đầu từ đạo hiếu, và lấy đạo hiếu làm nền tảng. Trong
Công giáo hiếu được ghi rõ ràng.
Trong mười giới của Công giáo được chia làm ba nhóm: 3 giới đầu liên quan
đến Thiên Chúa, 7 giới sau liên quan đến tha nhân. Giới thứ 4 “thảo kính với
cha mẹ” là giới đứng đầu nhóm sau. Điều
này phù hợp với đạo hiếu Việt Nam. Điều thứ hai, dân tộc Việt Nam đặt nặng đạo
hiếu với ông bà tổ tiên nhiều đời nhiều kiếp đã quá vãng mà mọi người đều phải
hiếu thảo. Niềm tin Công giáo là có Trời là Đấng tạo dựng vũ trụ phù hợp với niềm tin người Việt, là cửa ngỏ
thuận lợi cho việc hội nhập văn hóa Công giáo. Người ta tin rằng trên đầu mình
còn có một Đấng thiêng liêng, tạo nên vũ trụ. Tuy nhiên, ý niệm về Đấng thiêng
liêng này còn rất mơ hồ, chưa rõ rệt, và Công giáo đưa ý niệm này vào việc hiếu
thảo với Đấng thiêng liêng, cũng là cha mẹ chúng ta, nhưng ở cấp độ cao và rộng
hơn cha mẹ ở dưới đất này. Công giáo quan niệm vũ trụ như một đại gia đình,
trong gia đình đó, Thiên Chúa là cha mẹ sinh ra tất cả, và tất cả mọi tạo vật
là anh em.
Như vậy, khi đưa quan niệm về đạo hiếu của mình vào văn hóa dân tộc, thì
người Công giáo đã hoàn chỉnh quan niệm hiếu thảo đối với cha mẹ vốn sẵn có
trong nền văn hóa Việt Nam, làm cho quan niệm về đạo hiếu của dân tộc trở nên
rộng rãi và đầy đủ hơn.
Tiếp nhận văn hóa Công giáo, văn hóa Việt Nam cũng được làm giàu thêm bởi
những yếu tố văn hóa phương Tây, và đặc biệt thành công trong vấn đề chữ viết.
Khi truyền đạo vào Việt Nam, khó khăn đầu tiên mà các giáo sĩ vấp phải là sự
khác biệt về ngôn ngữ và văn tự, các giáo sĩ có thể học tiếng Việt được, nhưng
học chữ Nôm thì quá khó. Bởi vậy họ đã dùng bộ chữ cái La tinh quen thuộc có
thể bổ sung thêm các dấu phụ (mà một số ngôn ngữ phương Tây như chữ Bồ Đào Nha
đã từng làm) để ghi âm tiếng Việt- thứ chữ này về sau được gọi là chữ Quốc ngữ.
Chữ Quốc ngữ là thành quả công sức tập thể của các giáo sĩ người Bồ Đào Nha, Ý,
Pháp…và những người Việt Nam đã từng giúp họ học tiếng Việt.
Năm 1632 Gaspar d Amaral đã soạn
ra cuốn từ điển Bồ-Việt. Song công lao lớn nhất trong công việc củng cố và phát
triển thứ chữ này thuộc về linh mục Alexandro de Rhodes, người đã dày công sưu
tập, bổ sung biên soạn và năm 1651 đã cho xuất bản ở Rôma cuốn tự điển Việt-Bồ-
La tinh với ngữ pháp tiếng An Nam. Tuy mục đích đầu tiên của việc biên soạn chữ
Quốc ngữ chỉ là giúp cho các giáo sĩ truyền đạo, rồi sau được chính quyền Pháp
sử dụng phục vụ cho việc cai trị, nhưng nếu so với chữ hán và chữ Nôm nó có ưu
điểm rất lớn và rất dễ đọc.
Như vậy, là từ khi truyền vào Việt Nam, đạo Công giáo đã có những đóng
góp đáng kể cho nên văn hóa Việt Nam. Hội nhập Công giáo vào Việt Nam đã làm
cho nền văn hóa ấy trở nên phong phú, đa dạng. Cũng giống như Khổng giáo, Lão
giáo, Phật giáo đã làm trước kia. Trong sự hội nhập này không có gì mất đi,
trái lại cả văn hóa Việt Nam lẫn các tôn giáo khác, đặc biệt là Công giáo đều
có thêm những nét độc đáo của riêng mình.
Bản địa hóa văn hóa Công
giáo.
Trong cuộc giao lưu và tiếp xúc với Công giáo, văn hóa Việt Nam không chỉ
giành được quyền tôn trọng, mà trong một số trường hợp nó còn khiến cho đạo
Công giáo khi vào Việt Nam đã được bản địa hóa, tiếp nhận những dấu ấn của văn
hóa Việt Nam.
Việc thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng truyền thống ăn sâu trong tâm
thức của người Việt. Đạo Công giáo trước cộng đồng Vatican II loại bỏ tín
ngưỡng này để lại không ít những trằn trọc day dứt cho những tín hữu theo đạo.
Nhưng nay tín hữu Công giáo đã thực hiện được những nghi lễ tưởng niệm tổ tiên
ngày càng phong phú và đa dạng. Ngày nay các gia đình Công giáo đều đặt bàn thờ
tổ tiên ngay cạnh (thấp hơn một chút) bàn thờ Chúa, cũng đặt để bát hương và
hai chân nến hai bên. Vào những ngày giỗ trong gia đình, người Công giáo cũng
tổ chức theo phong tục địa phương như thắp hương kính nhớ tổ tiên, dâng hoa quả
để tỏ lòng thành …
Với truyền thống trọng nữ, truyền thống thờ Mẫu của người dân Việt, thì
hình ảnh đức Mẹ Maria trong đạo Công
giáo thật gần gũi với người Việt. Bà trở thành nhân vật được nhắc đến rất nhiều
trong Đạo Công giáo Việt Nam, tên Bà được đặt cho rất nhiều thánh đường. Thậm
chí đã hình thành cả một truyền thuyết về đức Mẹ Maria Việt Nam, Đức Mẹ La
Vang. Chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy nơi đâu hay bất cứ gia đình nào cũng đặt
tượng Đức Mẹ để Mẹ ban ơn phù giúp. Sự sùng kính Đức Mẹ của người Việt đã trở
thành tập tục, một truyền thống tốt đẹp và thiêng liêng. Bên cạnh đó còn có
hình ảnh khác cũng độc đáo không kém, tạo nên cho những nét đặc trưng cho Công
giáo Việt Nam: những tiếng chuông nhà thờ hai buổi sớm chiều đã tạo nên nguồn
cảm hứng cho thơ ca và âm nhạc, rồi từ những lời kinh phụng vụ được dịch sang
tiếng Việt theo một thể thơ vần Việt Nam rất tài tình mà mỗi khi đọc ta đều có
một rung cảm hồn Việt. Không một người Công giáo nào lại không thuộc những lời
kinh quen thuộc như kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng hoặc Kinh Sáng Danh… lối cầu
nguyện bằng kinh dường như trở thành máu thịt trong đời sống đức tin của người
Việt, đó là những nét đẹp trong văn hóa Công giáo hòa nhập với văn hóa dân tộc.
Đặc biệt, các nhà trí thức Công giáo đã phát huy cái hay của Nho gia và
Phật giáo, họ cũng soạn ra những tác phẩm
diễn ca để truyền bá giáo lý gia đình, nổi bậc nhất là cuốn “Ca Vè Cụ Sáu” của
Linh mục Trần Lục, những câu vè theo thể
thơ song thất lục bát hoặc lục bát, một thể thơ bình dân rất quen thuộc với
làng quê Việt Nam như các câu:
Phần hồn thì Chúa sinh ra
Xác này Chúa phó mẹ cha sinh thành
Phụ tình mẫu huyết đúc hình
Cho ta toàn vẹn mà sinh làm người
Về kiến trúc Công giáo Việt Nam không rập
khuôn theo kiến trúc Phương Tây mà kiến trúc theo Đông phương để phù hợp với môi trường khí hậu
và thời tiết Việt Nam. Các tòa nhà không cao như phương Tây mà chiều cao tối đa
thường chỉ giới hạn ở hai tầng để ngôi nhà hòa mình vào thiên nhiên, các phòng
ốc thì thoáng mát, cửa sổ được mở nhiều lối theo lối Việt Nam, các mái hiên,
mái che cửa sổ được làm rộng ra để che nắng tránh mưa. Các kiến trúc sư còn chú
ý sử dụng hệ thống mái ngói bố cục kiểu tam quan, lầu hình bát giác.. để nổi
bậc tính dân tộc. Trước kia các nhà thờ đều rập khuôn cứng nhắc theo lối kiến
trúc gô- tích cao vút có đỉnh tháp nhọn hoắt, thì từ thế kỷ 19 cũng đã có những
ngôi nhà thờ được xây dựng theo lối kiến trúc và trang trí hoàn toàn độc đáo
theo kiểu Việt Nam, nhìn thoáng qua chẳng khác gì những ngôi chùa, mà nhà thờ
Phát Diệm là một điển hình vời tháp thấp trải rộng có mái cong. Ngoài cây thánh
giá để phân biệt giữa chùa và ngôi thánh đường, ta cũng phải nhìn nhận đến
những nét hoa văn, những bức phù điêu hay những pho tượng.. tất cả đều hài hòa,
tạo nên một nét rất riêng biệt trong sự thánh thiện trang nghiêm của đạo Công
giáo.
Nhà thờ Phát Diệm (Ninh Bình) là một trong những công trình kiến trúc độc
đáo của Việt Nam và đồng thời cũng là một trong những nhà thờ Công giáo vào loại cổ nhất ở Đông Nam Á. Đây là một
quần thể kiến trúc gồm một nhà thờ lớn ở chính giữa và năm nhà thờ nhỏ bao quanh
trên một khu đất rộng hơn hai hét ta. Khác hẳn với hình ảnh phổ biến của nhà
thờ theo kiểu Châu Âu, nhà thờ lớn Phát Diệm mang dáng dấp của một ngôi chùa
với kiến trúc thấp trải rộng mái cong mang tính dân tộc rõ nét.
Như vậy, phần lớn trong mọi lãnh vực sinh hoạt, Công giáo đã có đóng góp
rất nhiều cho nên văn hóa Việt Nam, đồng thời cũng tạo cho mình nét văn hóa đặc
thù ăn sâu vào mọi phạm vi của đời sống.
Công giáo tại Việt Nam, nơi chịu ảnh hưởng của ba tôn giáo lớn (Phật,
Khổng, Lão), thường bị phê phán là ngoại lai với dân tộc, vì ảnh hưởng của Công
giáo đối với văn hóa Việt Nam còn rất hạn chế, nhưng cùng với thời gian đạo
Công giáo đã có những ảnh hưởng và đóng góp nhất định vào nền văn hóa Việt Nam.
Đạo Công giáo đến Việt Nam giai đoạn đầu cũng được đón tiếp nồng nhiệt. Gặp
được Công giáo và nghe những lời giảng của các linh mục trong hội truyền giáo,
đông đảo những nông dân nghèo đã hồ hởi tiếp đón Tin Mừng, vì Tin Mừng đã làm
sáng tỏ và nổi bậc lên những yếu tố vốn tiềm tàng trong tâm thức tín ngưỡng dân
gian, là chất liệu sống của thôn làng cả ngàn năm. Họ đã tin theo và trở thành
những tín hữu nhiệt thành đến mức phải chịu những sự khủng bố, bắt đạo ngặt
nghèo của vua quan. Một thời gian dài đạo Công giáo đã không phát triển mạnh,
không hội nhập được vào văn hóa Việt Nam do những tín điều đi ngược lại tập
quán, đạo lý của dân tộc. Những người theo đạo Chúa bị coi là Tà đạo vì không cho phép thờ cúng ông bà tổ
tiên, không gắn bó với tổ tiên làng mạc. Bất cứ người Việt Nam nào đều không
thể chấp nhận được một người theo đạo lại không chịu thắp nén hương trước bàn
thờ gia tiên. Đến ngày nay những tín điều đó đã không còn trong đời sống của
cộng đồng theo đạo Công giáo ở Việt Nam, mà thay vào đó là hình ảnh bàn thờ gia
tiên được đặt ngay dưới bàn thờ Chúa trong nhà của mỗi giáo dân hay nói cách
khác văn hóa Công giáo đã dung hòa với phong tục tập quán tín ngưỡng người
Việt, đã được bản địa hóa.
Ngày nay, lễ Noel, Valentin không còn dành riêng cho người theo đạo Công
giáo mà nó trở thành ngày hội cho nhiều người nhất là giới trẻ. Ở Việt Nam, đặc
biệt các thành phố gần đến ngày lễ có rất nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm Giáng
sinh và lễ hội tình yêu làm náo nhiệt khắp phố phường và lan tỏa xuống cả làng
quê.
Do vậy, ta không thể phủ nhận được những đóng góp to lớn của đạo Công
giáo đối với nền văn hóa dân tộc. Việc ra đời chữ quốc ngữ đã giúp cho người
Việt dễ dàng hơn trong việc học tập, giao tiếp và bảo tồn những dữ liệu dưới
dạng văn bản. Đồng thời khi đạo Công giáo vào Việt Nam cũng đã mang theo nhiều
yếu tố văn hóa phương Tây du nhập vào, làm cho văn hóa Việt Nam trở nên phong
phú hơn, phát triển thêm nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật mới. Cho đến nay
đạo Công giáo đã có được một nền móng tương đối vững chắc nhờ từng bước hội
nhập vào trong văn hóa Việt Nam theo sự đánh giá của các nhà khoa học về tôn
giáo này.
Nguồn: btgcp. Gov.vn
(trích: Luật tín ngưỡng tôn giáo-
Tìm hiểu về lễ hội-tín ngưỡng)
Áp
dụng: từ 01-01-2018)
{]{
Lời bàn:
Qua các đề tài về văn hóa Công
giáo hội nhập vào Việt Nam. Ta thấy đạo Công giáo đã rất thành công trên việc đưa
đạo vào đời trong thời gian ngắn so với Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo đã có
mặt trên 2000 năm. Nhưng những người dân Việt Nam nói về Phật giáo, Khổng giáo
họ mù mờ không hiểu, ngay những người trong giáo hội cũng không rõ về tôn giáo
của mình đang tín ngưỡng. Ngày lễ Noel toàn dân cả nước từ già đến trẻ không ai
là không biết, dù người đó có theo Công giáo hay không họ đều biết và tham gia
các lễ hội Noel. Trong khi Phật giáo nói tín ngưỡng đạo Phật ảnh hưởng dân
chúng 80% nhưng ngày lễ Phật Đản phần đông họ không hề hay biết, chính những
người thường xuyên đi chùa lễ Phật ăn chay ngày lễ Phật Đản tại nhà mình cũng
không treo một lá cờ để gọi là đón Mừng ngày Phật Đản. Thậm chí hễ nghe chùa có
việc gì hơi khó khó là họ dấu mặt xóa tên, không dám nói mình là đạo Phật. Điều
này đã từng xảy ra thời Tổng thống Ngô Đình Diệm và sau ngày giải phóng từ năm
1975 đến năm 1990, ông Nguyễn Văn Linh lên làm chủ tịch nước mới thay đổi việc
đi chùa. Lại nữa những người theo đạo Phật không tuân giữ lời Phật dạy nghiêm
túc bằng người theo đạo Công giáo. Ví dụ trong 5 giới Phật chế cho người tại
gia, như giới không uống rượu bia người theo đạo Công giáo họ giữ rất nghiêm
túc, trong khi đạo Phật từ giới xuất gia đến tại gia nhất là Nam giới không giữ
được. Về tập tục đốt vàng mã cho người chết, người theo Công giáo từ trong
thánh đường đến người theo đạo họ không dùng, trong khi đạo Phật từ chùa cho
đến tín đồ hình như 90% đều đốt vàng mã. Đạo Công giáo họ biết ứng dụng cái hay
cái đẹp của dân tộc để làm cho đạo họ ngày càng phát triển và đi vào cuộc sống
thực tế của mọi người dân. Trong khi
những người tin đạo Phật càng làm cho đạo Phật lu mờ, trở thành một tôn
giáo cúng kiến và cầu nguyện chẳng khác nào đạo Bà la môn ở Ấn Độ. Từ thuở Phật còn tại thế Ngài đã không chấp
thuận cách tu tập như vậy nay đạo Phật lại đi theo tín ngưỡng Ba la môn giáo.
d & c
0 nhận xét:
Đăng nhận xét