KINH BÁT NHÃ
Kinh Bát Nhã nói cho đủ :
Bát Nhã Ba la Mật đa Tâm kinh. Phật nói kinh Bát nhã trong 22 năm, sau cùng các thời pháp trong 49 năm thuyết
pháp của Phật. Các nhà kết tập kinh Bát nhã gồm 600 quyển. Là bộ kinh không những
nhiều tập mà là cốt lõi hàng đầu trong các thời pháp Phật thuyết. Sau các nhà
Phật học tóm lược thành 260 chữ. Rộng 600 quyển hẹp 260 chữ, chung quy chỉ nói
một từ KHÔNG.
Nói đến Bát Nhã là phải nói
Ba la mật, Bát nhã Ba la mật là trí tuệ vẹn toàn, trí tuệ viên mãn. Ngoài ra từ
Bát nhã các kinh văn khác thay vì nói Bát nhã thì dùng từ như Chơn như, Phật
tánh, Tự tánh, Viên giác v.v.. có khi gọi Bát nhã Tâm kinh, nghĩa là kinh nói về
Tâm cũng chưa hết nghĩa của Bát nhã, có chỗ gọi Bổ khuyết tâm kinh, lại dùng
sai lầm; có chỗ dịch Tâm kinh là kinh ruột, kinh lòng.
Tâm
là cốt lõi của tinh thần, cốt tủy của Phật giáo. Tâm còn gọi là tim, dùng trái
tim để ẩn dụ cho cốt lõi của kinh. Tâm là cốt lõi tinh thần của Phật giáo. Kinh Bát nhã là để hành trì chứ không phải để
đọc tụng mà ta đã thực hành, vì thế chưa đạt đến trọn vẹn ý nghĩa của kinh.
Bát nhã dịch là trí tuệ, Ba
la mật là công hạnh. Trí tuệ ở đây khác với kiến thức. Sự hiểu biết ở thế gian
gọi là kiến thức chứ không thể so sánh với Trí tuệ trong kinh được.
Trí tuệ Ba la mật là trí tuệ
sẵn có trong mỗi người tự tu luyện mà có chứ không phải học hỏi từ bên ngoài,
có từ nội tâm mà ra khác với kiến thức. Kiến thức học hỏi từ bên ngoài mà có.
Trí tuệ này gọi là trí tuệ vô sư là trí tuệ không có thầy, còn trí tuệ thế gian
là trí tuệ hữu sư, trí tuệ có là do thầy bạn cung cấp cho.
Ba
la mật dịch là qua bên kia bờ. Hiểu Ba la mật mà chưa hành Ba la mật thì hỷ nộ,
ái ố, vẫn còn nguyên, tham sân si, giận hờn, buồn khổ chưa chấm dứt vẫn còn
nguyên, mặc dù đọc Bát nhã, thuộc Bát nhã nhưng vẫn còn nguyên những tập khí
phiền não.
Bát nhã thuộc về Trí, Ba la
mật thuộc về công hạnh. Toàn bộ Bát nhã chỉ nói một chữ KHÔNG, tức Không Tánh.
Toàn bộ bài kinh Bát nhã chúng ta thấy hai từ Không và Bất. Bất và Không hai từ
thay nhau phủ định tất cả. Như bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng,
bất giảm… Vô trí, vô đắc, vô thọ, vô tưởng, vô hành, vô thức v.v…là những từ phủ
định, đại diện cho từ KHÔNG là vậy. Toàn bộ Bát nhã chỉ nói một chữ Không- tức
Tánh Không.
Toàn bộ trên đời xảy ra trong sự tương quan,
trắng đen, phải trái, được mất, hơn thua . … Bát nhã nói là Không, triết lý Bát
nhã xa rời thế giới Nhị nguyên gọi là viễn ly điên đảo. Điên đảo gồm có điên đảo
Tâm, điên đảo tình và điên đảo tưởng.
Vì thế Bát nhã không phải
kinh để tụng mà kinh để hành trì. Hành Bát nhã sẽ được viễn ly điên đảo tưởng đạt
đến cứu cánh Niết bàn. Cho nên trong kinh nói Ba đời chư Phật cũng đều y nơi
Bát nhã mà thành Vô thượng Chánh đẳng chánh giác.
Vị trí Bát nhã nằm trong giáo
lý Phật giáo , có ba giai đoạn :
1/
Năm trăm năm trước Tây lịch : Thời kỳ Đa nguyên luận, gồm Tứ đế, Ngũ uẩn, Thập
nhị nhân duyên- thuộc Phật giáo Nguyên thủy.
2/ Năm trăm sau kế tiếp sau Tây lịch:
Thời kỳ Nhất nguyên luận, tức một chiều hướng nói về ( tự tánh, chơn như ).
Ngài Long Thọ tổ thứ 15 khởi xướng giáo lý Tánh không, tức Nhứt thiết Pháp
không. Ngài Long Thọ làm bộ Đại Trí Độ luận
( Ma ha Bát Nhã Ba la mật đa). Đại là Ma ha, Bát nhã là Trí, Ba la mật
là độ. Nghĩa là Trí tuệ rộng lớn này vượt qua sanh tử, khổ não, xa lìa điên đảo mộng tưởng
v.v...
Xiển dương giáo lý Tánh
không tức phủ định luận, phủ nhận tất cả : Không chứng, không đắc, không sanh,
không diệt v.v..toàn bộ giáo lý chỉ nói một chữ Không. Giáo lý này ngài Bồ đề Đạt
Ma qua Trung Hoa vua Lương võ Đế hỏi Tổ: “ Trẫm làm trên 3000 ngôi chùa độ cho
vạn Tăng Ni như vậy có phước gì không ?”. Bồ đề Đạt Ma trả lời : “không có phước
gì hết”. Vua Lương Võ Đế thất vọng. Bồ đề Đạt ma cũng thất vọng không tìm ra
người hiểu pháp. Vì sao thế ? Lương Võ đế hỏi với cái nhìn lương thiện ( còn đối
đãi, thế giới nhị nguyên ). Còn Bồ đề Đạt ma nhìn với con mắt thiền chứng ngộ,
nên Bồ đề Đạt ma nói không có gì hết.
3/ Năm trăm tiếp theo Thời kỳ đa nguyên luận , tức thời kỳ có nhiều
quan niệm, nhiều tư tưởng …
Bát nhã gồm có ba lãnh vực:
Văn tự Bát nhã, quán chiếu Bát nhã và thực tướng Bát nhã. Tương ứng với Văn,
Tư, Tu. Tức nghe từ chữ nghĩa, rồi suy tư quán chiếu, từ sự tư duy quán chiếu sẽ
đạt đến Tự tánh. Tự tánh là Bát nhã của mỗi người. Khi đạt được Tự tánh rồi
hành giả sẽ vượt ra ngoài lý luận của thế giới nhị nguyên, thế giới của sự đối
đãi, được mất, hơn thua, phải trái. Khi đó mọi sự chấp thủ không còn hoàn toàn
vắng lặng không có cái tôi, cái của tôi và cái tự ngã của tôi. Trí tuệ vô ngã
và tâm đại bi viên dung sẽ hiện tiền.
Trong
kinh nói: Sắc tức thị không, không tức thị sắc, không phải để đấu lý, mà là nói
lên sự thật. Sự thật trong kinh gọi là “như thị kiến” tức là thấy thế nào thì
nói như vậy không thêm không bớt. Vì với con mắt của hành giả Phật học đã chứng
ngộ, thì thấy mọi sự mọi vật đều vô thường, tức mọi sự vật từ tâm lý đến vật lý
luôn luôn thay đổi, mà đã thay đổi thì không thật, đã không thật thì mọi sự việc
là “Không ”. Còn thế giới tương quan đối đãi thì hình thành sai biệt đa thù.
Nhìn thấy sự vật với cái nhìn “chấp thủ” tức cái nhìn cố định, mọi sự vật không
thay đổi, nên sinh tâm bỉ thử, nhân ngã phát sanh../..
( Trích từ các bài giảng của Thầy Tâm Thiện về kinh Bát Nhã. )
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét