VĂN HÓA PHẬT GIÁO VÀ XÃ HỘI HÀI HÒA THÔNG QUA TÍN
NGƯỠNG
Nguyễn
Phước Tâm
Tín ngưỡng là
“ linh hồn” trong đời sống tinh thần con người cũng là bộ phận cấu thành quan
trọng của một xã hội hài hòa. Bởi sự hài hòa của xã hội không chỉ là sự giàu có
về mặt vật chất, mà quan trọng hơn cả là sự giàu có trên mặt tinh thần chỉ khi
văn hóa vất chất và văn hóa tinh thần đạt được sự phát triển đồng bộ, mới có thể
xây dựng được xã hội hài hòa thực sự. Văn hóa tinh thần của con người chủ yếu
là chỉ cho sự lành mạnh trong tâm lý và sự nâng cao phẩm đức tư tưởng. Trong
khi đó, “tín ngưỡng” chính là giáo dục tăng cường phẩm đức tư tưởng và hướng dẫn
sự lành mạnh tâm lý của con người có hiệu quả trực tiếp nhất, cho nên “ tín ngưỡng”
không chỉ là tín ngưỡng trong ý nghĩa tôn giáo, mà còn là một hình thức giáo dục
phẩm đức tư tưởng xã hội hiệu quả nhất. Nếu chúng ta khéo biết vận dụng “ tín
ngưỡng” một cách hiệu quả để nâng cao và làm tăng thêm phẩm đức tư tưởng của
con người, thì sẽ có tác dụng tích cực to lớn cho việc xây dựng xã hội hài hòa.
Xây dựng một
xã hội hài hòa thông qua bốn điểm tinh thần của Phật giáo là :
1/ Thực hành
5 giới : Bỏ ác làm lành
2/ Tu tập Tứ
nhiếp pháp : Phục vụ xã hội
3/ Thực tập Từ,
Bi, Hỷ, Xả : Lợi ích chúng sanh
4/ Áp dụng
tinh thần lục hòa : Tiêu chí của sự hài hòa.
Tinh thần Tứ
nhiếp pháp dạy dỗ con người cần phải vô tư phụng hiến, lấy điều này biểu đạt
nói lên tín đồ Phật giáo không tự tư, tự lợi mà là tinh thần phục vụ cộng đồng,
và tinh thần từ bi hỷ xả của Phật giáo là cứu khổ độ sanh thể hiện tinh thần vô
úy, làm lợi ích chúng sanh. Tín đồ Phật giáo sinh hoạt trong xã hội, thì bất luận
ở đâu, lúc nào cũng lấy Tứ Nhiếp pháp làm công tác lợi tha, vận dụng Tứ nhiếp
pháp để phổ độ chúng sanh, phục vụ xã hội, nội dung “ Tứ nhiếp pháp” là Bố thí
nhiếp, Ái ngữ nhiếp, Lợi hành nhiếp và Đồng sự nhiếp.
Thực hành 5
giới nói lên ba phương diện :
1/ Tính trách
nhiệm xã hội
2/ Quan niệm
đạo đức luân lý
3/ Ý thức
ngay thật
- TU TẬP TỨ NHIẾP PHÁP : Phục vụ xã hội.
Tứ nhiếp pháp là tinh thần cơ bản mà tín
đồ Phật giáo dùng để tu Bồ tát đạo, cũng
là chuẩn tắc hành vi của một tín đồ Phật giáo làm các hoạt động xã hội. Vận dụng
“ Tứ nhiếp pháp” để phổ độ chúng sanh, phục vụ xã hội. Nội dung “ Tứ nhiếp pháp
” là :
Bố thí thuộc
sự nghiệp phúc lợi xã hội; Ái ngữ thuộc sự nghiệp giáo dục xã hội; Đồng sự thuộc
quản lý xí nghiệp xã hội. Cho nên, “ Tứ nhiếp pháp” của Phật giáo được xem như
là một phương pháp “ phục vụ xã hội” chính là tinh thần hành Bồ tát đạo. Vì thế,
“ Tứ nhiếp pháp ” của Phật giáo đối với xã hội có ba tác dụng tích cực
trên ba phương diện.
1/ Sự nghiệp
phúc lợi xã hội
2/ Giáo dục
văn minh xã hội
3/ Sự nghiệp
công ích xã hội.
Tinh thần Bố
thí không những đem lại phúc lợi xã hội, đem lại sự hài hòa trong cuộc sống xã
hội mà còn là cầu nối của sự đoàn kết, hướng dẫn mọi người đến những điều tốt đẹp
vươn lên những khó khăn bất hạnh trong cuộc sống, các chương trình từ thiện của
Phật giáo là thể hiện tinh thần Bố thí trong Tứ nhiếp pháp, có ảnh hưởng tích cực
đối với công việc xây dựng xã hội hài hòa đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho
con người.
Tinh thần lợi
hành của Phật giáo là thể hiện chủ yếu sự nghiệp công ích của xã hội. Công ích xã hội chủ yếu là dùng sự nghiệp có
thể giúp đỡ tha nhân, xã hội loài người đòi hỏi giữa những con người phải biết
giúp đỡ, ủng hộ lẫn nhau. Chính xã hội của chúng ta còn tồn tại rất nhiều người
thế yếu lực cô cần có sự giúp đỡ của xã hội, vì vậy thực hành sự nghiệp công
ích xã hội mà Phật giáo đã có những cống hiến nổi bật, qua các chương trình từ
thiện, từ tế v.v…Những điều này cho thấy sự nghiệp công ích Phật giáo đóng vai
trò to lớn đối với sự hài hòa xã hội.
- Ái ngữ : Phật giáo chủ yếu chính
là dùng ngôn ngữ hiền thiện, thân mật, dịu dàng, để dẫn dắt người khác, không
nói những lời thô ác, chửi rủa gièm pha tha nhân, nên tán thán công đức người
khác.
- Đồng sự : của Phật giáo chủ yếu
thể hiện sự nghiệp phát triển xã hội trên ba phương diện cùng ăn, cùng ở, cùng
làm, đóng vai trò đoàn kết trong một tập thể, trong một công ty xí nghiệp. Đồng
sự nhiếp Phật giáo thể hiện sự đoàn kết thuận hòa giữa các cá nhân với tập thể,
giữa tập thể với cá nhân, tạo nên sức mạnh tinh thần để phát triển về mặt vật
chất bền vững lâu dài trong môi trường sinh hoạt tập thể,cũng như tu tập cũng vậy
với tinh thần đồng sự khiến cho mọi Phật sự mau thành tựu và sự gắng bó của mỗi
thành viên trong tăng đoàn được lâu bền hơn.
Áp dụng tinh thần Tứ nhiếp pháp để xây dựng
xã hội hài hòa giữa vật chất và tinh thần thì xã hội ấy mau phát triển và bền vững
lâu dài.
Từ bi hỷ xả: vì lợi ích chúng sanh. “ Từ, bi, hỷ, xả”là biện pháp và phương sách
hành Bồ tát đạo của tín đồ Phật giáo, cũng là con đường chủ yếu Phật giáo phát
huy vai trò đối với xã hội. “ Từ” đem đến cho chúng sanh niềm an vui hỷ lạc. “
Bi” diệt trừ khổ não cho chúng sanh về tâm lý vật lý. Từ ban vui Bi cứu khổ, hai nét đặc trưng của Phật giáo để
làm lợi lạc quần sanh trên hai mặt vật chất và tâm lý. Về mặt tâm lý giải trừ
khổ não về mặt tinh thần, về mặt vật lý giúp cho chúng sanh hết khổ về thân,
trên vấn đề ăn, mặc, ở, bệnh tật. “ Hỷ” làm cho chúng sanh vui vẻ, “ Xả” làm
cho chúng sanh buông bỏ phiền não, xả bỏ cố chấp, xa rời tà kiến. “ Từ, Bi, Hỷ,
Xả” gọi là Tứ vô lượng tâm, Bồ tát dùng bốn phương pháp này để cứu độ khổ nạn cho
chúng sanh, khiến chúng sanh có thể thoát ly phiền não đạt được giải thoát thật
sự. Nhiệm vụ chủ yếu của Bồ tát ở đời
chính là cứu độ chúng sanh ra khỏi bể khổ. Phật giáo cho rằng thế gian, nơi
chúng sanh đang sinh tồn- là bể khổ sinh tử luân hồi, thì cần phải được giải
thoát ra khỏi khổ ải sanh tử, bước tới Niết bàn bờ bên kia, cho nên “Từ, bi, hỷ,
xả” là hành động cao thượng làm cho chúng sanh được lợi ích.
Đại từ làm vui cho tất cả chúng sanh, Đại
bi là cứu khổ cứu nạn hết thảy chúng sanh, Từ bi làm cho chúng sanh lìa khổ được
vui, Từ bi là tinh thần cứu khổ độ nguy cho chúng sanh của Phật giáo, là lấy
tinh thần xuất thế gian của Phật giáo làm sự nghiệp nhập thế hài hòa xã hội. Với
xu thế phát triển nền kinh tế thị trường, áp lực tâm lý con người càng ngày
càng lớn, rất nhiều người xuất hiện nhiều căn bệnh khác nhau tâm lý ở mức độ
khác nhau, đối với ngoài xã hội vẫn không thể giải quyết căn bản áp lực tâm lý
con người một cách toàn diện được. Thông qua Phật giáo có thể giải quyết những
nổi sầu muộn và bất an trong tâm mọi người, giảm bớt áp lực hình thành do căng
thẳng công việc của con người, khiến tâm lý nhẹ nhõm đạ được sự hài hòa trong
cuộc sống. Phật giáo có nhiều phương pháp làm cho tâm lý con người giảm bớt
căng thẳng, như thiền định, niệm Phật, trì chú, tụng kinh, lễ sám v.v… Những
phương pháp này giúp xoa diệu tâm trạng căng thẳng của con người, vì thế có thể
nói “ tín ngưỡng” chính là lương dược tốt nhất để điều trị căn bệnh tâm lý con
người. Đây là sự cống hiến của tín ngưỡng đối với sự hài hòa xã hội.
- Tinh thần lục hòa : tiêu chí hài hòa :
Tinh thần “ Lục
hòa” của Phật giáo là phương pháp và phương tiện chủ yếu quản lý Tăng đoàn Phật
giáo cũng là tiêu chí chủ yếu thể hiện xã hội hài hòa. “ Lục hòa” của Phật giáo
cũng gọi “ lục hòa hợp” hoặc “ Lục hòa kính ”, tức người tu học Phật pháp thì cần
phải thể hiện tình đoàn kết thân mật, kính trọng lẫn nhau.
1 /Thân hòa đồng trụ, tức mọi người
cùng sống chung nhau một trú xứ không gây gổ xích mích nhau, phải sống chung
hòa.
2/ Khẩu hòa vô tranh, tức mọi người
cùng sống chung nhau một chỗ không tranh tụng, cải vã lời to tiếng nặng, không
dùng những ngôn ngữ không lành mạnh để đối xử nhau.
3/
Ý hòa đồng duyệt : tức mọi người cùng làm việc với nhau, cùng sống chung
với nhau phải thống nhất tư tưởng, tâm lý phải vui vẻ hài hòa.
4/ Giới hòa đồng tu : Tức mọi người
cùng làm việc với nhau, cùng sống chung với nhau phải thống nhất nội quy, chế độ
đã đề ra.
5/ Kiến hòa đồng giải : tức mọi
người cùng sống chung với nhau, cần cùng một quan điểm, cùng một chí hướng,
cùng một phương thức, cùng trao đổi chia sẻ kinh nghiệm và sự hiểu biết cùng
nhau.
6/ Lợi hòa đồng quân : tức mọi người
cùng sống chung với nhau trong một tập thể, một trú xứ, cùng làm việc với nhau,
lợi ích chia đều với nhau, quyền lợi đều nhau. Tuy lợi hòa đồng quân, nhưng
cũng nằm trong luật nhân quả. Người có công, người có trí, người sức nhiều hơn
thì phần lợi tức phải theo năng suất mà có phần lợi tức nhiều hơn hay ít hơn.
Bình đẳng trong đồng đẳng. Người lớn to cao thì nhận lãnh mặc chiếc áo vừa với
kích cỡ to cao của người ấy, không thể nhận lãnh chiếc áo kích thước của người
thấp bé. Ngược lại người thấp nhỏ cũng không thể nhận lãnh chiếc áo kích cỡ của
người to cao là vậy “ bình đẳng trong đồng đẳng” mới tạo nên không khí và môi
trường hài hòa thân thiện.
Người có năng
khiếu học hỏi thì ưu tiên cho việc học hỏi hơn là bắt họ phải lao động chân tay
sản xuất. Người tâm trí không nhạy bén, việc lao động chân tay thích hợp với họ
thì người đó đảm nhận việc lao động, vì thế bình đẳng phải thích hợp với khả
năng của cá nhân trong tập thể. Mỗi người một việc cùng nhau sinh hoạt hài hòa,
cùng hướng đến mọt mục tiêu thì sẽ tạo nên một thành quả tốt đẹp viên mãn.
Lục hòa không
những áp dụng trong môi trường tu học Phật pháp, mà cũng có thể áp dụng cho bất
cứ tập thể nào ngoài xã hội, từ gia đình, trường học, xí nghiệp, công ty, quân
đội v.v…đều có lợi ích như nhau. Làm cho xã hội hài hòa, khiến cho xã hội đoàn
kết, áp dụng cho quốc gia thì khiến cho quốc gia ấy giàu mạnh, an bình thịnh vượng.
Thế giới mà
chúng ta đang sống hiện nay đang xảy ra nhiều điều bất ổn, nhiều nơi xảy ra chiến
tranh, tai nạn, dịch bệnh, thiên tai, sự tranh chấp lẫn nhau giữa người với người,
nước này với nước kia, giữa đồng nghiệp với bạn bè… và sự cạnh tranh và chiến
tranh như vậy, làm cho cuộc sống con người trở nên rối ren bất an. Con người
luôn kỳ vọng thế giới hòa bình, xã hội ổn định, nhân dân an cư lạc nghiệp. Phật
giáo hướng dẫn con người thành tâm hướng thiện, chủ trương với tôn chỉ “ tịnh
hóa thân tâm, lợi lạc hữu tình” hy vọng thông qua giáo dục tư tưởng Phật giáo để
thúc đẩy sự hài hòa trong xã hội. Tinh thần lục hòa là phương pháp tốt nhất đem
lại hòa bình cho nhân loại.
Thân hòa đồng trụ, tức phải sống
chung hòa bình, không tranh đấu chiến tranh, tàn hại lẫn nhau; Khẩu hòa vô
tranh, là lời ăn tiếng nói phải ôn hòa nhã nhặn, không gây tranh cải, nói xấu
châm biếm lẫn nhau. Ngôn ngữ dùng để truyền đạt những lời hay lẽ phải, là
phương tiện nhằm giao lưu trao đổi giữa mọi người, không phải dùng lời lẽ trở
thành vũ khí để tranh luận, hủy báng lẫn nhau.
Ý hòa đồng duyệt, trên ý thức tư
tưởng, cần có ý thức chung giữa các mối quan hệ qua lại cần có một thức ký kết
chung. Giới hòa đồng tu, là hệ thống pháp luật, điều lệ, pháp quy, cần phải
cùng nhau tuân thủ, như vậy mọi người mới bình đẳng trên pháp luật, mọi người đều
tuân thủ quy chế chung. Kiến hòa đồng giải,
là chỉ cho ý kiến và kiến giải phải đạt được nhất trí, mới có thể khiến cho
đoàn thể được ổn định có trật tự. Nếu trong một sự kiện nào đó kiến giải không
thông thì không thể đạt được sự thống nhất, vì vậy không thể đồng tâm hiệp lực
hoàn thành sự nghiệp. Lợi hòa đồng quân, là chỉ trong lợi ích cá nhân trong tập
thể phải thực hiện chế độ hưởng theo thành quả lao động bình đẳng.
Tinh thần lục hòa của Phật giáo được
áp dụng trong xã hội, có ba tác dụng tích cực
1/ là tự giác tuân thủ chế độ pháp quy quốc gia- 2/ Xây dựng nguyên tắc
phân phối hợp lý công bằng, 3/ Xây dựng
ý thức tư tưởng và nguyên tắc hành vi thống nhất. Tiêu chí xã hội hài hòa là đa
phương diện, đòi hỏi sự hài hòa các mặt như giáo dục văn hóa xã hội, tư tưởng đạo
đức, tôn trọng pháp luật và kỷ luật, văn minh tinh thần, đoàn kết dân tộc. Mà
tinh thần lục hòa Phật giáo có thể hướng dẫn con người tự giác tuân thủ pháp luật
kỷ cương, là thể hiện cụ thể của giới hào đồng tu, hình thành nguyên tắc phân bố
hợp lý công bằng xã hội, là thể hiện cụ thể lợi hòa đồng quân, ý thức tư tưởng
và chuẩn tắc hành vi thống nhất, là thể hiện cụ thể của thân hòa cộng trụ; Kiến
hòa đồng giải, khẩu hòa vô tranh, ý hòa đồng duyệt. Cho nên có thể nói, tinh thần
lục hòa của Phật giáo có vai trò tích cực rất to lớn trong việc xây dựng nên xã
hội hài hòa.
Tóm lại : Qua các điều nêu trên
cho thấy văn hóa Phật giáo có đầy đủ các mặt tích cực đối với việc kiến thiết một
xã hội hài hòa, đồng thời cho biết Phật giáo đối với sự ổn định và hài hòa của
chúng ta là vô cùng quan trọng. Ngày nay, con người mặc dù đã đạt được sự sung
túc vô cùng lớn lao về vật chất, nhưng trong tinh thần lại trở nên cực kỳ nghèo
thiếu, trong tâm lý phát sinh những bất thường nhất định. Những hiện tượng này ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt thường nhật của chúng ta, cũng ảnh hưởng đến sự
phát triển bình thường trong xã hội hài hòa. Chúng ta cần yêu cầu sức mạnh trên
mặt xã hội và văn hóa, giáo dục khác nhau của các tầng lớp để dẫn dắt, hướng dẫn,
trước hết cần phải cải thiện áp lực tâm lý của con người, khiến con người có tố
chất tâm lý lành mạnh, sau đó chỉ dẫn con người cần phải đạt được sự hài lòng về
tinh thần, phát huy tư tưởng yêu thương vốn có của con người, chỉ con người có
đầy đủ phẩm đức tư tưởng cao thượng mới có thể đẩy mạnh tiến trình hài hòa xã hội
./.
Trích
: Văn hóa Phật giáo và xã hội hài hòa thông qua tư tưởng tín ngưỡng : Nguyễn
Phước Tâm – VHPG 15-2-2022.
{]{
Có người chỉ muốn sống riêng cho bản
thân mình, lại có người sẵn sàng hy sinh bản thân mình để đóng góp cho cuộc đời.
Nhưng suy cho cùng, đời người chỉ có ý nghĩa khi người đó biết sống có trách
nhiệm với bản thân, đồng thời mang đến niềm vui và giá trị cho mọi người.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét