GIÁO DỤC
Giáo dục là điều cần thiết cho tất cả chúng
sanh, đặc biệt là đối với con người. Con người từ buổi sơ khai sự giáo dục chưa
phát triển nên sự hiểu biết về môi trường xung quanh và những hiện tượng của trời
đất còn hạn chế, dần dần hoàn thiện tri thức qua nhiều thế hệ nối tiếp. Cho đến
ngày nay, con người đã văn minh hơn và nâng tầm hiểu biết của mình hơn so với
con người buổi ban sơ ấy. Sự phát triển vượt bậc về mọi mặt nhận thức của con
người ngày nay chẳng phải tự nhiên một đứa trẻmới sinh ra đời đã có thể sở hữu
được; mà phải trải qua quá trình học hỏi, trau dồi, tích tụ từng ngày mới có thể
tạo thành những con người uyên bác, kiệt xuất trong xã hội. Nhưng từ lúc sanh
ra cho đến lúc chết, trong khoảng thời gian có thể ước chừng cho một con người
tồn tại ở thế gian này khoảng 100 năm, thì con người ấy, với việc tìm hiểu mà
không có sự hỗ trợ và tiếp nối của kho tàng kiến thức do cha ông xưa để lại,
thì liệu rằng, trong 100 năm ấy họ có thể tự khám phá hết cái nền kiến thức vĩ
đại này chăng ? Chính vì sự cần thiết
này, nên giáo dục ra đời.
Ý NIỆM VÈ
GIÁO DỤC : Từ ngữ “ Giáo dục” theo
cách hiểu thông thường của chúng ta nghĩa là dạy dỗ, đào tạo. Trong tiếng Anh,
từ “ Giáo dục” gọi là “Education”,
còn hiểu với một ý nghĩa rất hay là “ dẫn
con người vượt ra khỏi cái hiện tại của họ để vươn tới những gì hoàn thiện, tốt
đẹp hơn và hạnh phúc ở tương lai ”.
Giáo dục có hai hình thức căn bản
là “ Tự giáo” và “ Tha giáo ”. Tự giáo là phương thức tự giáo dục chính mình nhờ
sự tinh tấn, trách nhiệm của bản thân để tự trau dồi kiến thức, góp nhặt sự hiểu
biết qua những hành động như : Tự đọc sách, tự trải nghiệm thực tế từ môi trường
xung quanh, hay tự ngồi lại suy tư, chiêm nghiệm sâu vào những thông tin mình
đã dung nạp hằng ngày; từ đó tìm ra cái nghĩa lý thâm sâu trong các vấn đề thường
gặp. Nói chung, tự giáo chính là phương thức tự mình làm thăng tiến cho bản
thân mà không cần sự hỗ trợ của bất kỳ người nào khác.
Còn tha giáo là phương thức giáo dục
thông qua sự đào tạo từ người khác, tức học tập theo một hệ thống có trường lớp,
có giáo viên giảng viên và bạn bè cùng chung học tập, nghiên cứu, có những kiến
thức nền tảng được thiết lập sẵn, phù hợp với xã hội đương thời được những người
có đủ thẩm quyền lập định và số đông công nhận. Hoặc giả là cách học không
thông qua trường lớp với lối “ tầm Sư phỏng đạo ”. ( tìm thầy hỏi đạo ) học hỏi
với những vị thầy mình có nhân duyên gặp gỡ và thấy được cái hay của vị ấy rồi
theo học. Chung quy lại, tha giáo chính là nhờ người khác chỉ bày, đào tạo,
truyền trao kiến thức cho mình, chứ chẳng phải do mình tự khám phá những kiến
thức ấy.
Hai
phương thức giáo dục nêu trên, tuy khái niệm và cách thức khác biệt nhau; nhưng
nó luôn đi đôi và hỗ trợ cho nhau trong quá trình học tập của người học. Nếu chỉ
học theo cách tự giáo thì người học sẽ phải tự thân học hỏi mà không có bất cứ
ai hỗ trợ, chỉ dẫn, xác định cho. Cách học này đòi hỏi người học đều phải tự
thân chứng biết mới thâu nhận được kết quả cho mình; vì thế, quá trình học hỏi
sẽ khá khó khăn, mất nhiều thời gian mà lượng kiến thức nhận được ít ỏi hơn rất
nhiều. Chưa kể đến việc người học có thể dung nạp những thông tin không hữu
ích, những điều gây hại cho chính bản thân mình và người khác mà không tự biết,
không tự nhận thức được điều đó đúng hay sai để chỉnh sửa và loại trừ thì thật
là nguy hại lắm. Còn xét về phương diện tha giáo, nhờ có sự chỉ dẫn của người
đi trước, có kinh nghiệm, có kiến thức uyên bác hơn nên việc tiếp nhận và xử lý
thông tin đầu vào sẽ nhanh chóng và ổn định hơn rất nhiều; nhưng chỉ nhờ người
khác chỉ dạy mà không tự tìm tòi, nghiên cứu sâu rộng thêm về những vấn đề mình
đã được học hay những đề tài xoay quanh chúng để bổ trợ cho sự hiểu biết của
mình thì cũng là một sự thiếu sót lớn. Vì thế, tự giáo và tha giáo phải đi đôi
với nhau, hỗ trợ cho nhau mới tạo ra được lợi ích lớn trong quá trình học tập,
trau dồi kiến thức.
Nếu thế gian chú trọng việc giáo dục
con người thiên về phần thể xác, hình thức mà xem nhẹ việc giáo dục về tâm lý,
thì ngược lại Phật giáo đi sâu vào trọng tâm giáo dục con người thiên về phần
tâm thức nhiều hơn, làm phát triển mạnh mẽ năng lực tâm linh vô hạn bên trong mỗi
con người, khai thác những yếu tố tìm ẩn mà con người chưa thể tìm thấy và khai
phá được; tạo nên một đời sống lý tưởng được làm chủ bởi tâm thức, vượt khỏi
cái thế giới quá nhiều hạn định với thân xác vô thường biến hoại này. Sự xuất
hiện vỹ đại của Đức Phật giữa cõi đời tăm tối đầy uế trược như ánh dương chói lọi
sau chuỗi đêm dài u tối, khai mở cho chúng sanh con đường thoát khỏi khổ đau
luân hồi, tránh xa những khổ thú, đọa xứ đang chực chờ sẵn để dẫn chúng sanh
vào cảnh đọa đày thảm khốc. Với những giáo lý nền tảng đặc trưng như : Duyên Khởi,
Vô thường, Vô ngã, Tứ đế, Bát chánh đạo… Đức Phật đã vạch ra cho chúng sanh con
đường giữa (trung đạo) vượt thoát khỏi hai cực đoan chấp thường và chấp đoạn (nhị
nguyên ) của nền tư tưởng triết học tại xã hội đương thời. Con đường giữa này
vi diệu và thù thắng ở chỗ, nó không phải là sự chấp thuận chung giữa nhị
nguyên mà chính là con đường vượt thoát khỏi nhị nguyên đối đãi. Đức Phật chính
là một nhân chứng cho con đường mà Ngài
là người dẫn lối. Chính sự không thỏa mãn về hai cực đoan thường hằng và đoạn
diệt của nền triết học sở tại, Đức Phật đã tự ra đi tìm con đường mới, rốt ráo
hơn để giải thoát hoàn toàn cho tự thân và chúng sanh khỏi những trói buộc của
vô minh vọng tưởng. Với sự thành đạo của Thái tử Siddhattha đã hình thành nên một
Đạo Phật giữa hệ thống đa Thần giáo phức tạp tại xứ Ấn Độ thuở ấy, sáng ngời giữa
các học thuyết thời bấy giờ với giáo nghĩa giải thoát của Đức Gotama tự thân chứng
ngộ và tuyên thuyết. Sự kiện chuyển Pháp luân của Đức Phật, khai giảng chánh
pháp đã làm thay đổi sự nhận thức, cũng như tăng trưởng sức mạnh tâm linh của
xã hội Ấn Độ đương thời nói riêng và đưa nền triết lý của toàn thế giới nói
chung lên tầm cao mới, tầm cao của sự thoát khỏi sanh tử luân hồi.
Tuy nhiên, Đức Phật không phủ nhận sự hiện diện của thân
thể vật lý này mà chỉ không công nhận thân này là một sản phẩm của tự ngã như
con người thường hay nhận định. Đức Phật phủ nhận hoàn toàn một tự ngã cũng như
những gì liên quan đến tự ngã ( ngã sở thuộc ); Ngài cũng không công nhận có một
đấng toàn năng sáng thế, mà Đức Phật chỉ công nhận thân này với sự duyên sinh
giả hợp của các thành phần như: Tứ đại, kết hợp từ cha mẹ… mà hình thành, rồi
chúng sẽ đến hồi phải hoại diệt, tan rã theo sự đoạn diệt của các duyên cấu
thành chúng, trở về “ không” như trước kia chúng từng có mặt. Như vậy, cái tự
ngã mà con người cho là tồn tại, thật có ngã hay không ! Nếu có ngã, thì ngã ấy phải duy trì được cho
thân này không bị thương tổn và hoại diệt chứ ! Nếu có ngã, thì ngã ấy phải chi
phối được hoàn toàn tất cả những gì thuộc về thân này chứ ! Cái ngã mà chúng sanh gán ghép vào thân thể
này thật sự không thể chi phối hoàn toàn cái thân xác mà đáng lẽ ra nó làm chủ,
cũng không thể giữ cho nó mãi mãi ở trạng thái bất hoại mà đành lòng đứng nhìn
nó phải chịu đựng sự hủy hoại tàn khốc của thời gian. Nhận định này đã làm chấn
động các tư tưởng, học thuyết, triết thuyết thời bấy giờ hướng về cái “Ngã”. Đức
Phật không chỉ đơn giản là một nhà truyền giáo, một vị Đạo Sư với những triết
thuyết của mình…mà Ngài là vị Thầy mang trong mình một tư tưởng giáo dục con
người toàn diện.
GIÁO
HÓA CỦA PHẬT GIÁO.
Ở thế gian có danh từ “ Sự giáo dục”
thì trong Đạo Phật là “ Sự giáo hóa”. Vậy, giáo dục của thế gian và giáo hóa của
Đạo Phật khác nhau chăng ? Giáo dục dạy
cho con người những kiến thức được nghiên cứu qua nhiều thế hệ và rập khuôn lại
theo một sự thống nhất chung. Còn phương thức giáo hóa của Đức Phật là cách
Ngài vạch ra con đường cho chúng sanh vượt thoát khỏi mọi giới hạn chật hẹp của
kiếp người nhỏ bé. Đức Phật không bắt buộc chúng sanh phải theo những gì Ngài
đã chỉ dẫn, mà những ai, muốn được lợi ích như thế nào thì hãy tự thực hành
theo phương pháp như thế ấy.
Trong kinh điển nói, Đức Phật chỉ dạy cho
chúng sanh có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn, nghe thì thật là nhiều ! Nhưng đó
là tùy theo căn cơ sâu cạn, cao thấp khác biệt muôn trùng của chúng sanh mà
Ngài phương tiện chỉ bày ra vậy. Chứ thật, nếu chúng ta thấy căn cơ của mình
phù hợp với pháp môn nào thì chuyên lòng thực hành pháp môn ấy đến chỗ rốt ráo
tất sẽ đoạn diệt được một trong nhiều phiền não. Như vậy, phải tu tập hết tất cả
pháp môn sao ! Theo nguyên lý Duyên khởi “ một
cáidiệt tức muôn trùng cái diệt”. Giả dụ như, nếu chúng ta diệt được tham,
thì liệu chất dẫn để đưa đến sự sinh khởi
của sân và si còn chăng ! Vì thế, thành tựu rốt ráo một pháp môn sẽ diệt
trừ được hoàn toàn mọi phiền não; một mắt xích đã bị đứt lìa thì liệu vòng tròn
mắt xích luân hồi tồn tại được ư !
GIÁO HÓA PHẬT GIÁO LÀ CON ĐƯỜNG
ĐƯA ĐẾN ĐOẠN TẬN KHỔ ĐAU.
Thế
gian đã sẵn có sự phân biệt giữa cái thiện và cái ác, với phần đông con người đều
ưa chuộng cái thiện mà tránh xa cái ác, luôn mong muốn những điều thiện lành đến
với bản thân mình và những người mình thương yêu. Nhưng, không phải ai cũng xác
định được việc làm nào là thiện, hành động nào là ác; đặc biệt là khi xét đến kết quả sau cùng của
việc làm ấy. Vì thế, con người vô tình, có người cố ý đã gây tạo những việc ác,
tổn hại cho mình và cho cả những người xung quanh mà đôi lúc họ còn không tự nhận
biết. Cho nên, vì thương tưởng đến hàng đệ tử và tất cả chúng sanh, Đức Phật đã
chỉ ra rằng : “ Này các Tỳ kheo, có ba căn bảnbất thiện này. Thế nào là ba ? Tham là
căn bản bất thiện, sân là căn bản bất thiện, si là căn bản bất thiện. Cái này
là tham, này các Tỳ kheo, cái ấy bất thiện. Ai với lòng tham có làm về thân, về
lợi, về ý, cái ấy bất thiện. Với ai có lòng tham, bị lòng tham chinh phục, tâm
không được tự chủ, vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc,
tịch thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên : “ Ta là sức mạnh, ta có sức
mạnh”.Cái ấy là bất thiện. Như vậy, rất nhiều ác bất thiện pháp này sanh từ
tham, duyên khởi từ tham, tập khởi từ tham, khởi lên nơi người ấy ” ; đối với
sân và si cũng lại như vậy. Tham, sân, si chính là ba căn bản phiền não, là gốc
rễ làm phát sanh, trưởng dưỡng các bất thiện pháp gây nên đau khổ, nhiễu hại
cho chúng sanh. Nếu bị ba độc tham, sân, si này nhiếp phục thì tâm chúng ta sẽ
bị mất tự chủ, chúng ta sẽ sống trong đau khổ với sự tổn não, ưu não, nhiệt não
ngay trong đời sống hiện tại và sau khi thân hoại mạng chung, cái chờ đợi chúng
ta chỉ có thể là ác thú, đọa xứ mà thôi. Nếu đã nói về bất thiện pháp, lẽ đương
nhiên, Đức Phật cũng nói về những thiện
pháp như sau : “ Có ba căn bản của thiện, này các Tỳ kheo, Thế
nào là ba ? Không tham là căn bản của thiện, không sân là căn bản của thiện,
không si là căn bản của thiện. Cái gì là không tham, này các Tỳ kheo, cái ấy
thiện. Ai với lòng không tham có làm gì về thân, về lợi, về ý, cái ấy thiện. Ai
không có lòng tham, không bị lòng tham chinh phục, tâm được tự chủ, không vu
cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch thu tài sản, mắng
nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên : “ Ta là sức mạnh, ta có sức mạnh ”. Cái ấy là
thiện. Như vậy, rất nhiều thiện pháp
này sanh từ không tham, duyên khởi từ không tham, tập khởi từ không tham, khởi
lên nơi người ấy.” ; Vô sân, vô si cũng lại như vậy. Khi một người thay thế
ba căn bản bất thiện tham, sân, si trong mình bằng ba căn bản của thiện là vô
tham, vô sân, vô si thì người ấy đoạn tận được các bất thiện pháp do tam độc
sanh, làm cho chúng không còn hiện hữu, không thể sanh khởi trong tương lai,
làm chủ được tâm, sống đời an lạc, không còn tổn não, ưu não, nhiệt não ngay
trong đời sống hiện tại, sau khi thân hoại mạng chung được sanh về cảnh giới Niết
bàn của chư Phật.
Trong một cảnh duyên khác, Đức Phật
cũng đã chỉ dạy cho người dân Kalama về việc xác định niềm tin và phân biệt thiện
và bất thiện như sau: “ Như vậy, này các
Lalama, điều Ta vừa nói với các Ông : ‘ Chớ vội tin vì nghe theo truyền thuyết;
chớ vội tin vì nghe theo truyền thống; chớ vội tin vì nghe người ta nói; chớ vội
tin vì được Kinh tạng truyền tụng, chớ vội tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ vội
tin vì đúng theo một lập trường; chớ vội tin vì sự đánh giá hời hợt từ những dữ
kiện, chớ vội tin vì phù hợp với định kiến; chớ vội tin vì phát xuất từ nơi có
uy quyền; chớ vội tin vì vị Sa môn là bậc Đạo sư của mình’ . Nhưng này các
Kalama, khi nào tự mìnhbiết như sau : “ Các pháp này là bất thiện, các pháp này
là có tội, các pháp này bị các người trí quở trách; các pháp này nếu thực hiện
và chấp nhận, đưa đến bất hạnh,đau khổ, thời này các Kalama hãy từ bỏ chúng!...
Nhưng này các Kalama, khi nào tự mình biết như sau : ‘ Các pháp này là thiện,
Cácphápnày không có tội, các pháp này không bị người có trí chỉ trích, các pháp
này nếu thực hiện và chấp nhận sẽ đưa đến hạnh phúc an lạc, thời này các
Kalama, hãy đạt đến và an trú ! ”.Nhờ những lời này của Đức Phật mà người
dân Kalama phân biệt được rõ ràng, thoát khỏi mối nghi ngờ, phân vân về những
quan điểm được nêu bởi các Sa môn, Bà la môn. Phân biệt được cái nào là thiện
cái nào là bất thiện và tránh được những bất hạnh, khổ đau do các bất thiện
pháp gây ra, tận hưởng sự an lạc trong những thiện pháp được sanh khởi, trưởng
dưỡng.
Qua hai ví dụ
vừa nêu trên, chúng ta có thể thấy rằng sự giảng dạy của Đức Phật với cách thức
rất đỗi bình thường nhưng giáo nghĩa được truyền tải bên trong lại siêu việt
khác thường. Ngài đã tự thân tìm ra, tự thân thực chứng để rồi truyền trao lại
tất cả những điều Ngài đã giác ngộ cho chúng sanh “ vì lợi ích cho số đông, vì
lợi ích cho chư Thiên và loài người ”, chứ chẳng phải là những lý thuyết suông
được đề ra nhằm chiêu dụ đồ chúng. Trong giáo lý của Ngài, lấy chúng sanh làm
cái nhân chính yếu, vì lợi ích cho chúng sanh mà tuyên thuyết chứ chẳng phải vì
một điều gì khác. Vì thế, giáo lý Ngài dạy luôn hướng đến việc huóng dẫn chúng
sanh tự nhận ra vấn đề mình đang gặp phải, chứ không ai khác có thể thay thế
mình làm việc ấy. Chính việc tự nhận thức
được vấn đề này, mà chúng sanh có thể tự thấy rõ được đâu là thiện pháp, đâu là
bất thiện pháp; để rồi tự mình thấy được cái ác, cái nguy hiểm tiềm tàng bên
trong những pháp bất thiện ấy để diệt trừ và những lợi ích lớn lao từ những thiện
pháp để làm tăng trưởng thêm, đem đến lợi lạc cho tự thân và cho mọi người.
Không phải tự
nhiên mà người đời xưng tụng Đức Phật là một nhà Giáo dục vĩ đại và toàn diện;
mà qua cách Ngài chỉ ra vấn đề, nguyên nhân của vấn đề, sự giải quyết vấn đề và
phương pháp áp dụng để đi đến sự giải quyết vấn đề ( Tứ đế), chúng ta thấy được
sự toàn diện và vô cùng thực tế ở trong đó. Sự giáo hóa của Đức Phật không chỉ
đơn thuần là sự dạy dỗ, mà nó là cả một công trình nghệ thuật về cách hướng dẫn
chúng sanh tự chuyển hóa chính mình. Chuyển hóa từ thấp hèn thành cao thượng, từ
bất thiện thành thuần thiện, từ bị trói buộc, ô nhiễm, khổ đau thành giải
thoát, tịnh lạc; từ vô minh thành sáng suốt từ phàm phu thành bậc Thánh; từ
chúng sanh trở thành Phật.
Angulimala, một
người lầm đường lạc lối, trở thành một tướng cướp khét tiếng hung bạo giết người. Nhưng nhờ
năng lực giáo hóa của Đức Phật, vi diệu thay ông được trở về từ cõi ác, thoát
khỏi màng bọc của vô minh và được sống trong lòng chánh pháp; trở thành bậc “vô
nhiễm”, “ bất hại” làm đệ tử xuất gia của Như Lai. Ưu Ba Ly một người nghèo làm
nghề cắt tóc, hội đủ duyên lành được Đức Phật giáo hóa mà trở thành “ Tướng
quân trong chánh pháp”, vị Đại đệ tử “ Đệ nhất trì luật” trong hàng ngũ Tăng
đoàn của Đức Phật; cho đến những vị Đại Luận sư vang danh Ấn Độ thời bấy giờ, tự
tin với những triết thuyết cao siêu của mình và được nhiều người theo học nhưng
một khi lời Phật đã được nghe qua tai thì liền từ bỏ cả đạo, dẫn dắt đồ chúng của
mình mà theo gót “chân lý” của Như Lai. Thế mới thấy được sự giáo hóa của Đức
Phật thật tuyệt vời khôn tả.
KẾT LUẬN
: Từ cái nôi Ấn Độ xưa, năng lượng chuyển
hóa mạnh mẽ này đã lan rộng khắp năm châu bốn bể, đem đến lợi lạc cho không biết
bao nhiêu con người khốn khổ, ươm mầm phước thiện cho toàn cõi nhân sinh. Vì thế,
mỗi chúng ta, những người “ vào nhà Như
lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai”, tự xưng mình là người con của Phật, phải
truyền tải được cái năng lượng chuyển hóa quý hóa của Đức Phật đến tất cả chúng
sanh, chứ chẳng phải chỉ phô bày sự rẻ mạt của con chữ đến cạn cả bút mực thế
gian hầu làm thỏa mãn chính mình thì thật là vô nghĩa. Hãy lấy “ con chữ” làm
phương tiện truyền tải cho sự chuyển hóa, chứ đừng lấy sự chuyển hóa làm cái cớ
cho “con chữ” lên ngôi ! Chúng ta những
người “ tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự” hãy thừơng tư niệm về điều này để đừng
nhầm lẫn và lãng quên trọng trách của chính mình đang gánh vác.
( trích
: Giáo dục và giáo hóa; Sự khác biệt tuyệt vời từ bậc Toàn Giác- Học Lâm Điểm Tuyết – VHPG – 1-4- 2022- số
386 .)
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét