NGHI THỨC CỦA TÔN GIÁO NGUYÊN THỦY
Nghi thức tôn giáo và thầy tư tế:
Con người ai ai cũng nhân cách hóa
những vị thần mà họ tin tưởng, vì vậy nghi thức tế thần của họ cũng đều chủ yếu
là vận dụng theo các lễ nghi giữa con người với nhau. Nguyên nhân tế thần không
ngoài việc thỉnh cầu, tạ ơn và tìm sự an ủi. Phương thức tế thần ban đầu lấy
hiến tế các con vật là chính, dần có thêm những bài hát ca ngợi thần, những
điệu múa làm vui lòng thần và những quy định về trình tự và động tác cúng tế.
Vì vậy, nghi thức tôn giáo thời kỳ đầu, người bình thường có thể làm được, về
sau do các nghi thức này ngày một phức tạp, đành phải để cho những tư tế chuyên thực hiện các nghi
lễ tôn giáo chủ trì.
Tư tế vốn dĩ bình đẳng với người
thường, nhưng sau vì được hưởng những đồ người ta cúng tế cho thần linh, và trở
thành môi giới giữa con người với thần linh, nên người ta tưởng rằng họ gần gũi
thần linh hơn và nhận được nhiều sự quan tâm của thần linh hơn, từ đó họ trở
nên khác với người thường và bắt đầu được thần thánh hóa lên. Việc trở thành
chủng tánh đặc quyền của giai cấp tư tế Bà la môn ở Ấn Độ, hay việc được hưởng
nhiều đặc quyền của các tư tế Cơ Đốc giáo mà trong Cựu Ước đã nói đến điều có
thể thuyết minh cho điều này.
Sự ra đời của chú thuật:
Chú thuật có cùng một nguồn gốc với tôn giáo, cả hai đều ra đời từ sự
ngưỡng cầu đối với các sức mạnh siêu nhiên. Chú thuật có lịch sử rất xa xưa, và
nó rất phổ biến, hiện diện cả trong các tôn giáo nguyên thủy cho đến các tôn
giáo cao cấp.
Trong nghi thức cúng tế cầu nguyện của các tôn giáo đều có lời văn tế và
chú thuật. Nghĩa của chú là cầu xin hoặc khấn nguyện, cho nên phàm những từ
chuyên dùng để cầu xin, khấn nguyện đều có hàm nghĩa của chú ngữ.
Những lời trong các thần chú không giải nghĩa nên không ai hiểu được
nghĩa của chú thuật. Sự bí mật của chú ngữ có hai nguyên nhân: một là việc dịch
âm không dịch nghĩa từ ngoại lai, hai là bản thân chú ngữ là sự đơn giản hóa
một loại ngữ nghĩa nào đó nên không dễ để có thể hiểu được. Việc tụng chú mà
không cần hiểu hàm nghĩa của nó có hai nguyên nhân: một là thần chú đa phần do
thần linh khải thị, dùng làm tín hiệu thì không nhất thiết phải có bất cứ ý
nghĩa nào; hai là người tụng chú sở dĩ có linh nghiệm là vì xuất phát từ sự tập
trung tâm lực của cá nhân, muốn được cảm ứng, tất phải thành tâm, nếu bận bịu
với việc suy nghĩ nghĩa lý của chú ngữ, tâm lực liền khó tập trung hơn.
Sử dụng chú ngữ vào thực tế thì gọi là chú thuật. Chú thuật là một loại
kết tinh của tác dụng phản xạ của tâm lý con người. Do có một điều thỉnh cầu
nào đó mà con người thốt ra một lời cầu nguyện với thần linh, cái tâm thỉnh cầu
này nếu đặc biệt mạnh hoặc giữ được lâu dài, thì có thể ở trong mơ, hoặc trong
lúc tâm thần bất định, sẽ được một hoặc một số vị thần nào đó hiện thân khải
thị cho một câu thần chú mới. Việc được thần linh hiện thân khải thị thỉnh
thoảng cũng có thể xảy ra ở người bình thường, còn đối với các bậc thầy chú
thuật chuyên tu, thì cơ hội xảy ra so với người thường càng nhiều hơn, phân
tích bằng tâm lý học, ta có thể thấy rõ được điều này.
Việc sử dụng chú thuật cũng có thể tùy từng người mà có sự khác nhau,
những người mới hoặc những người sử dụng trong tâm ý tán loạn, chắc chắn sẽ
không hiệu nghiệm. Vì thế, những hành giả Du già của Mật tông đặc biệt chú
trong ba nghiệp thân khẩu ý tương ưng với nhau. Sự hiệu nghiệm của chú thuật,
ngày nay người ta đã có thể chỉ rõ được bằng phương pháp khoa học, không còn là
vấn đề hoàn toàn thần bí nữa.
Những nghi thức từ lúc
sinh đến lúc chết
Loài người nguyên thủy xem sự ra đời của một con người là do bàn tay tạo
tác của sức mạnh siêu nhiên nên họ cử hành các nghi thức tôn giáo như: rảy nước
lên mình đứa trẻ để biểu thị sự thanh khiết, hoặc đưa đến những nơi linh thiêng
mà gia tộc họ thờ tự để cầu thần ban tên cho đứa trẻ, hoặc trồng cây kỷ niệm để
dự đoán vận mạng của đứa trẻ sau này.
Khi đứa trẻ trở thành thanh niên, phải cử hành “nghi thức gia nhập đoàn
thể” của chủng tộc hoặc của đoàn thể tôn giáo. Rồi đến tuổi kết hôn họ tổ chức
nghi thức lễ kết hôn. Kết hôn là việc
quan yếu để loài người duy trì nòi giống, vì vậy nó cũng có những nghi thức tôn
giáo cần phải tiến hành. Trong nghi thức kết hôn của người nguyên thủy, có một
loại phong tục cổ quái gọi là: “quyền hưởng đêm đầu”. Họ cho rằng những nhân
vật trong tôn giáo hoặc những nhân vật có địa vị cao trong xã hội mới có quyền
ngủ đêm đầu tiên với các trinh nữ. Việc Cơ Đốc giáo lấy Tân Ước và Cựu Ước làm
thánh chứng cho hôn lễ, kỳ thực, cũng xuất phát từ nghi thức hôn lễ nguyên thủy
này.
Chết là điểm chung cuộc của đời người. Đối với các chủng tộc nguyên thủy
thì chết lại là sự bắt đầu của một đời sống mới, họ cho rằng người chết vẫn
được sống mãi ở một thế giới khác. Vì vậy, khi có người chết, họ tụng chú trừ
tai cầu phước cho vong linh người đó, chôn các loại vật dụng vào trong mộ người
đó để người đó sử dụng, làm cho người đó được sống vui ở bên kia thế giới.
Những nghi thức tôn giáo của người nguyên thủy bao quát tất cả các sự
kiện trọng đại trong đời sống của một con người. Cho đến nay Cơ Đốc giáo vẫn
còn đầy đủ các loại nghi thức ấy. Còn Phật giáo suy cho cùng là một tôn giáo
siêu tôn giáo, trong kinh điển nhà Phật chưa từng quy định cách cử hành các
nghi thức khi chào đời, trưởng thành, hôn lễ, tang ma; thậm chí có thể nói Phật
giáo là một tôn giáo lý tính phản đối các nghi thức tôn giáo. Phật giáo Trung
Hoa và Việt Nam đã ảnh hưởng các nghi thức cầu nguyện của Đạo giáo và các tập
tục nhân gian đã tạo nên các nghi thức cúng tế cầu nguyện, thịnh hành nhất là
việc siêu độ vong linh, việc này ban đầu học từ nghi thức lập trai đàn của Đạo
giáo, sau triều Nguyên là do ảnh hưởng của Lạt ma Mật tông Tây Tạng.
Vật hiến tế của tôn giáo
Vật hiến tế là vật môi giới được con người sử dụng để tỏ lòng cung kính
thần, tạ ơn thần, hoặc xoa dịu sự phẫn nộ của thần. Những thứ được dùng làm vật
hiến tế thường là tùy theo khả năng của mỗi người mà chọn những trái cây ngon
nhất, những bó hoa đẹp nhất, hay những gia súc béo nhất. Có khi người ta mời cả
thần linh cùng ăn với con người; thần linh hấp thụ phần hương của vật cúng, còn
con người ăn lấy phần chất của vật cúng. Nhưng vào thời kỳ đầu, người ta cho
rằng thần linh thực sự ăn vật cúng nên đem nó vứt bỏ hết, ví dụ như cúng thần
sông thì quăng hết vật cúng xuống sông; sau đó họ mới thay đổi quan niệm, cúng
xong không vứt bỏ nữa mà lấy vật cúng để ăn.
Sau khi việc ăn vật hiến tế cúng thần trở thành phong tục, một số nơi đã
lấy chính việc này làm nghi thức sùng bái tôn giáo cần phải thực hành. Chẳng
hạn như ở Ấn Độ, mỗi khi cúng xong, thầy chủ lễ sẽ đem vật hiến tế ra phân chia
cho người dân, phần phân chia này cũng được quý trọng như thần thánh và phải ăn
hết ngay lập tức.
Lại có một loại phong tục lạ lùng
khác là: trước tiên tôn vật hiến tế làm thần linh, sau đó lại đem nó giết đi để
ăn thịt, và tin rằng tính chất thần linh của con vật hiến tế có thể ảnh hưởng
đến người ăn nó. Vì phong tục này, những động vật được người nguyên thủy sùng
bái, bất luận là nó tự chết hoặc bị giết, thường hay bị người sùng bái nó ăn
thịt. Niềm tin này cũng được vận dụng cho cả loài người, những tù trưởng của
thổ dân New Zealand, sau khi chết trận, thường bị quân địch chia nhau ăn thịt
với hy vọng sẽ có được dũng khí và trí tuệ như của họ.
Lại có nơi người ta tin rằng hiến
tế người thân yêu nhất của mình có thể đạt được sự phù hộ và làm cho thần linh
nguôi giận nhiều hơn. Ví dụ, Abraham trong Cựu Ước muốn giết chính con trai của
mình để hiến tế cho Yahweh; Jephthah thì thực sự đã giết con gái ruột của mình
để thiêu cúng Thiên Chúa.
Nói đến hiến tế người tức là nói đến phong tục giết người để tế thần.
Phong tục này đã từng tồn tại ở rất nhiều nơi, vào rất nhiều thời đại. Có nơi
giết người để tế đường, có nơi giết người để tế cầu, có nơi giết người để tế
chân móng của một công trình kiến trúc lớn nào đó. Phong tục này cũng đã từng
lưu hành ở Trung Quốc. Những chuyện như vậy cũng đã có ghi trong lịch sử.
Trong lịch sử La Mã, việc giết người để tế thần không còn gì là xa lạ.
Caesar từng giết hai binh sĩ để tế thần. Augustus từng lấy một cô gái làm vật
hiến tế, vào các thời hoàng đế Trajan và
Constantine sau đó cũng từng có sự việc như vậy; mãi đến năm 915 Tây lịch tục
hiến tế người mới bị cấm chỉ. Hiến tế người đặc biệt thịnh hành ở Mexico xưa
kia, theo thống kê của Max Muler, mỗi năm trong các đền thờ ở Mexico, khoảng
2500 người bị giết để tế thần, trong đó có năm lên đến 10 vạn người. Ở Ấn Độ cũng
có phong tục này, thịnh hành nhất là từ năm 1865 đến 1866; hiện nay đã bị cấm,
nhưng người ta vẫn lấy bột mì, hồ nhão, đất sét nặn thành hình người rồi chặt
đầu nó tế thần.
Thổ dân Mexico thời cổ còn có tục ăn thịt người. Mỗi năm cử hành một lễ
tế lớn trước vị thần mà họ phụng thờ, từ một năm trước phải chọn ra một chàng
trai tuấn tú để làm vật hiến tế cho năm tới. Trong vòng một năm đó, chàng trái
này được tôn sùng là thần và được cung phụng đầy đủ mọi thứ; người dân thấy anh
ta phải phủ phục lễ bái và phải thuận theo tất cả yêu cầu của anh ta. Đến tháng
cuối cùng, tuyển ra 4 mỹ nữ làm vợ của anh ta. Vào ngày cuối cùng, cho anh ta
dẫn đầu một đoàn người trang nghiêm tiến vào đền thờ, sau rất nhiều nghi thức
và lễ lạy, anh ta sẽ bị giết để tế thần, thịt của anh ta được thầy tư tế và các
bậc tôn trưởng chia nhau ăn hết.
Từ tục lệ hiến tế người của tôn giáo nguyên thủy, xem người hiến tế là
thần và chia nhau ăn thịt người đó, có thể chứng minh lý luận về Jesus có xuất
xứ từ tôn giáo nguyên thủy. Jesus tự xưng là hiện thân của Chúa, Jesus hy sinh
trên thập tự giá là để tế thần chuộc tội cho nhân loại. Những người tín ngưỡng
Jesus, vì để có được thánh linh của Jesus, nên phải ăn Tiệc Thánh- ăn thịt và
uống máu Jesus.
(Sách tham chính của tiết này là Văn Hóa Nhân Loại Học của Lâm Huệ Tường)
Trích từ: Tôn Giáo Học So Sánh:
HT Thánh Nghiêm – TT Chân Tính dịch)
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét