TÌM HIỂU VỀ ĐẠO TIN LÀNH
Đạo Tin lành ra đời ở
châu Âu vào thế kỷ thứ 16 có nguồn gốc
chính trị, xã hội rất sâu xa.
1/ Tên gọi Đạo Tin lành:
Tên gọi của đạo Tin lành có một ý nghĩa riêng và có mối liên quan đến Ki
tô giáo. Vào đầu Công nguyên, ở vùng Trung Cận Đông thuộc vùng đất của đế quốc
La Mã xuất hiện một tôn giáo mới thờ Đấng Cứu thế- ngôi hai Thiên Chúa, tiếng
Hy lạp là Jesus Christ. Danh xưng Jesus Christ dịch qua tiếng Việt là
Giê-Su-Ki-ri-xi-tô, gọi tắt là Giê Su Ki Tô, chữ Jesus dịch qua âm Hán là Gia
Tô, chữ Christ là Cơ Đốc. Như vậy, đạo thờ Đấng Cứu thế có những tên gọi theo
cách dịch khác nhau: đạo Ki tô, đạo Gia tô, đạo Cơ Đốc. Từ một tôn giáo địa
phương thế kỷ thứ 4 đạo Ki tô trở thành tôn giáo của đế quốc La Mã rộng lớn và
thường được gọi là Catholic. Thực ra tên gọi Catholic có từ rất sớm để chỉ
những cộng đồng Ki Tô giáo ban đầu và nó có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp Katholikos
có nghĩa là chung, là thông thường (Common) hay toàn bộ (Universal). Sau này,
khi Ki Tô giáo phân rẽ thành Công giáo Rôma, Chính Thống giáo, Tin lành giáo,
Anh giáo thì trong nhiều trường hợp Cathoclic (Công giáo) vẫn chỉ toàn bộ
truyền thống Ki Tô giáo. Ở Việt Nam Catholic gọi là Công giáo, có một thời kỳ
người Việt gọi Công giáo là Thiên Chúa
giáo. Gọi như vậy chưa đúng vì cả Chính Thống giáo và Tin lành giáo, Anh giáo
đều thờ Thiên Chúa. Thấy thế người bổ sung thêm từ Rôma và gọi là đạo Thiên
Chúa Rôma. Cách gọi này có vẻ rõ hơn nhưng xem ra cũng không chuẩn xác, nên đã
trở lại tên chính thức của nó là đạo Công giáo.
Đến thế kỷ thứ 11 vào năm 1054 Ki Tô giáo diễn ra cuộc đại phân liệt lần
thứ nhất, một bên theo văn hóa Hy Lạp, một bên theo văn hóa La Tinh, gọi là
phân liệt Đông-Tây, hình thành tôn giáo mới ở phương Đông: Chính Thống giáo.
Tên gọi này biểu lộ quan điểm thẳng thắng và đúng đắn của một “giáo thuyết về
niềm tin chân thật”. Đôi khi người ta gọi Chính Thống giáo là Ki Tô giáo phương
Đông, người ta dùng các từ Đông phương, Hy Lạp để chỉ Chính Thống giáo, các từ:
Tây phương La tinh, Rôma để chỉ Công giáo.
Thế kỷ thứ 16, cuộc đại phân liệt lần thứ 2 diễn ra trong Công giáo, hình
thành một tôn giáo mới- đạo Tin lành. Giáo hội Công giáo và phong kiến Châu Âu
gọi là “đạo chống đối”, khi sang Trung quốc dịch qua Hán gọi là “đạo Thệ phản ”.
Cuộc đại phân liệt lần thứ hai thực chất là cuộc cải cách tôn giáo, cho nên
trong nhiều trường hợp người ta còn gọi đạo Tin lành là “đạo Cải cách”. Đạo Tin lành truyền vào Việt Nam đầu thế kỷ
thứ 20. Ở miền Bắc gọi theo người Trung Quốc gọi là “đạo Thệ phản”, ở miền
Trung gọi là “đạo Gia Tô” ở miền Nam gọi là “đạo Huê Kỳ”. Đầu năm 20, 30 của
thế kỷ 20 giáo sĩ Cadman người Canada thuộc Hội Truyền giáo Cơ Đốc- CMA, cùng
với văn sĩ Phan Khôi dịch kinh Thánh ra tiếng Việt Nam, hai ông không dịch Phúc
Âm (Evangelical) là “Tin mừng” như đạo Công giáo, mà dịch là “Tin lành”. Cách
gọi Phúc âm là Tin lành của người theo đạo Cải cách, dần dần thành thói quen và
nhất là nó phân biệt đạo Công giáo nên người ta gọi luôn đạo Cải cách là đạo
Tin lành cho đến ngày nay.
Cùng thời gian với việc ra đời đạo Tin Lành, xuất hiện một trào lưu cải
cách theo cách riêng ở nước Anh thành Anh Giáo –Angelicalsm.
Như vậy, Ki tô giáo hay Cơ Đốc giáo bao gồm: Công giáo, Chính Thống giáo,
Tin lành giáo, Anh giáo hay nói cách khác, đạo Tin lành là “anh em” cùng một
gốc với đạo Công giáo, đạo Chính thống giáo và Anh giáo.
2- Hoàn cảnh và điều kiện
ra đời đạo Tin lành:
1/ Đạo Tin lành ra đời ở châu Âu vào thế kỷ thứ 16 có nguồn gốc chính
trị, xã hội sâu xa. Trước hết là sự xuất hiện của giai cấp tư sản với những yêu
cầu mới về chính trị, xã hội, tư tưởng tôn giáo. Trong điều kiện thời Trung cổ,
Giáo hội Công giáo và giai cấp phong kiến có quan hệ chặt chẽ với nhau, đạo
Công giáo trở thành chỗ dựa tư tưởng cho chế độ phong kiến, Giáo hội Công giáo
bị chính trị hóa trở thành thế lực phong kiến, giai cấp tư sản đã thực hiện
cuộc cải cách đạo Công giáo để “thảo bỏ hào quang tôn giáo” của giai cấp phong
kiến, để thu hẹp dần lực lượng và ảnh hưởng của giai cấp phong kiến, trước khi
tiến hành cuộc cách mạng xã hội- cách mạng tư sản để lật đổ chế độ phong kiến.
2/ Đạo Tin lành ra đời thể hiện sự khủng hoảng nghiêm trọng về vai trò
ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo do những tham vọng quyền lực trần thế và sự sa
sút đạo đức của hàng giáo phẩm, nhất là sau cuộc “lưu đày Babylon” (1387-1417).
Cùng với sự khủng hoảng, uy tín ảnh hưởng của Giáo hội là sự bế tắc của nên
thần học Kinh viện (hình thành từ thế kỷ 12)- Cơ sở quyền lực của Giáo hội Công
giáo.
3-Đạo Tin lành ra đời xét về mặt văn hóa, tư tưởng được thúc đẩy bằng phong
trào Văn hóa phục hưng- chủ nghĩa nhân văn- chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu thế kỷ
thứ 15. 16. Với chủ trương đề cao con người, đề cao nhân tính, nhân quyền đối
lại việc đề cao thần tính, thần quyền, đề cao tự do cá nhân, dân chủ và sự
hưởng lạc, đối lại sự kìm hãm dục vọng và ràng buộc của chế độ phong kiến và
luật lệ Công giáo, đề cao lòng yêu nước cụ thể đối lại đề cao lòng yêu Chúa và
một nước Chúa chung chung diệu vợi… Văn hóa phục hưng- chủ nghĩa nhân văn đào
tạo ra chiều kích mới về văn hóa, tư tưởng, cách nhìn mới về con người và tôn
giáo, làm cơ sở cho việc nẩy nở và tiếp thu những tư tưởng cải cách tôn giáo.
4-Đạo Tin lành ra đời là sự thừa kế các phong trào chống lại quyền lực
Giáo hoàng và giáo triều Rôma từ nhiều thế kỷ trước, mà tiêu biểu là một số phong
trào từ thế kỷ thứ 12 trở đi, như ở các nước Pháp, Anh thế kỷ 15, ở Ý và Tiệp …
5. Nguyên nhân trực tiếp hay đúng hơn là nguyên cớ của cuộc cải cách là
đời sống sa hoa hưởng lạc của hàng giáo phẩm trong giáo triều Rô ma và nhất là
việc giáo hoàng Leon X ra lệnh ban ơn toàn xá cho những ai dâng cúng tiền của
cho Giáo hội bằng cách bán “bùa xá tội”.
Những người xướng xuất và lãnh đạo cuộc cải cách không phải ai khác là những
giáo sĩ Công giáo: linh mục, tiến sĩ Thần học Martin Luther (1483-1546) linh
mục Thomas Munzer (1490- 1525) linh mục Jean Calvin (1509-1564) linh mục Ubric
Zwinghi (1484-1525).
Phong trào cải cách tôn giáo nổ ra đầu tiên ở Đức vào tháng 11-1517 bằng
việc Martin Luther công bố 95 luận đề chống lại chức vụ giáo hoàng, giáo quyền
Rô ma và việc bán “ bùa xá tội”. Từ nước Đức, phong trào lang sang nước Pháp,
Thụy Sĩ, Anh, Scốtlen, Đạn Mạch, Thụy Điển, Na Uy.. để đến thứ kỷ thứ 17, sau
cuộc chiến tranh ba mươi năm (1618- 1648) bất phân thắng bại, gây nhiều tổn
thất, cả châu Âu và giáo triều Rôma chấp nhận những người cải cách và từ đó
hình thành một tôn giáo mới tách ra khỏi Đạo Công giáo là Đạo Tin lành.
3- QUÁ TRÌNH TRUYỀN BÁ ĐẠO TIN LÀNH
Thế kỷ thứ 17 giai cấp tư sản ở châu Âu bước lên vũ đài chính trị, tự
khẳng định mình bằng một loạt cách mạng tư sản (cách mạng tư sản Anh 1640, cách mạng tư sản Pháp 1789..) Đặc
bệt, sau đó giai cấp tư sản châu Âu tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược ra
bên ngoài để mở rộng thị trường và khai thác nguyên vật liệu. Đạo Tin lành đã
khai thác triệt để hoàn cảnh chính trị, xã hội nói trên nhằm mở rộng ảnh hưởng.
Nếu cuối thế kỷ 17, mới có 30 triệu tín đồ thì cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19,
đạo Tin lành có đến 100 triệu tín đồ. Thế kỷ 20, với hai cuộc chiến tranh thế
giới (1914—1918, 1939-1945) và tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với tốc độ như vũ bảo đã tạo môi trường thuận
lợi cho đạo Tin lành phát triển mở rộng ra nhiều nước trên thế giới. Đạo Tin
lành ra đời ở châu Âu, sau đó truyền sang các nước Bắc Mỹ. Ở Bắc Mỹ gặp môi
trường tự do, đạo Tin lành phát triển hình thành nhiều tổ chức, hệ phái. Rồi từ
Bắc Mỹ, bằng nhiều con đường, trong đó có việc nhờ dựa vào vị thế, ảnh hưởng
của Mỹ, đạo Tin lành trở lại châu Âu và lan tỏa ra toàn thế giới. Đó là con
đường phát triển của đạo Tin lành, đồng thời lý giải: cái nôi của đạo Tin lành
ở châu Âu, còn trung tâm (điều hành) Tin lành thế giới ở Bắc Mỹ.
Một điều cần quan tâm nữa, trong quá trình phát triển, trước đây và hiện
nay một mặt khai thác điều kiện thuận lợi như nói trên, mặt khác tự bản thân
đạo Tin lành rất năng động, luôn luôn đổi mới và thích nghi, đặc biệt là chủ
trương “nhập thế”, lấy các hoạt động xã hội làm phương tiện, điều kiện để thu
hút tín đồ. Đồng thời do ra đời muộn, khi địa bàn truyền giáo ngày càng ít. Từ
rất sớm, đạo Tin lành đã hướng các hoạt động truyền giáo đến vùng dân tộc thiểu
số. Trên bình diện thế giới vào những thế kỷ trước, châu Á, châu Phi, châu Mỹ
là những vùng xa xôi của “châu Âu văn minh”. Hiện nay, đối với từng quốc gia,
vùng miền núi, biên giới, hải đảo là những nơi dân tộc thiểu số sinh sống.
Đến nay, chỉ gần 500 năm kể từ khi ra đời, đạo Tin lành phát triển với
tốc độ rất nhanh, trở thành một tôn giáo lớn, đứng thứ ba sau đạo Hồi giáo.
Công giáo với khoảng 550 triệu tín đồ của 285 hệ phái có mặt ở 135 nước của tất
cả các châu lục, trong đó tập trung ở các nước công nghiệp tiên tiến như Tây Âu,
Bắc Âu và Bắc Mỹ.
4 – GIÁO LÝ, LUẬT LỆ, LỄ
NGHI VÀ TỔ CHỨC
Đạo Tin lành có nhiều tổ chức hệ
phái. Mặc dù có những điểm khác nhau về nghi thức hành đạo và cách tổ chức giáo
hội giữa các hệ phái, nhưng nhìn chung đều thống nhất ở những nội dung, nguyên
tắc chính. Có thể khái khoát giáo lý, luật lệ, lễ nghi, tổ chức của đạo Tin
lành để so sánh với đạo công giáo như sau:
a/ Kinh thánh và giáo lý:
Trước hết về kinh thánh, cả hai tôn giáo Tin lành và Công giáo đều lấy
kinh thánh (Gồm Cựu ước và Tân ước) làm nền tảng giáo lý. Đạo Tin lành đề cao vị trí của kinh
thánh, coi đó là chuẩn mực căn bản, duy nhất của đức tin và sự hành đạo. Đạo
Công giáo cho rằng ngoài Kinh thánh còn có những văn bản khác như nghị quyết
các Công đồng chung, các sắc chỉ, thông điệp… của Giáo hoàng, về nguyên tắc
cũng có giá trị như giáo lý. Đạo Tin lành đề cao Kinh thánh một cách tuyệt đối,
tất cả tín đồ và chức vụ mục sư, truyền đạo
đều sử dụng Kinh thánh, nói và làm theo Kinh thánh. Đối với đạo Tin
lành, Kinh thánh có vị trí cực kỳ quan trọng. Trong các trường hợp, Kinh thánh
giữ vai trò như một giáo sĩ trên cả hai phương diện phục vụ và truyền giáo.
- Giáo lý của đạo Tin lành và Công giáo về cơ bản giống nhau. Cả hai tôn
giáo đều thờ Thiên Chúa, tin theo thuyết “Thiên Chúa ba ngôi” (Ngôi Một: Cha,
Ngôi Hai: Con, Ngôi Ba: Thánh thần, Ngôi
Hai được “lưu xuất” từ Ngôi Một, Ngôi Ba
được “lưu xuất” từ Ngôi Một và Ngôi Hai); tin vũ trụ, muôn vật đều do Thiên
Chúa tạo dựng và có điều khiển, tin con người do Thiên Chúa tạo dựng theo cách
riêng và có phần hồn và phần xác, tin con người có tội lỗi, tin có Ngôi Hai
Thiên Chúa là Giêsu Kitô xuống trần chịu nạn, chịu chết chuộc tội cho loài
người, tin có Thiên thần và Ma quỷ. Có Thiên đàng và Địa ngục; tin có ngày Phục
sinh, Tận thế và Phán xét cuối cùng.
Tuy nhiên, có một số chi tiết trong một số tín điều truyền thống của đạo
Công giáo được đạo Tin Lành sửa đổi và lược bỏ tạo ra sự khác biệt nhất định
giữa đạo Tin lành và Công giáo.
Đạo Tin lành có tin sự hoài thai Chúa Giêsu một cách mầu nhiệm của bà
Maria nhưng cho rằng bà Maria chỉ đồng trinh cho đến khi sinh Chúa Giêsu, sau
đó không còn đồng trinh nữa. Thậm chí
một số phái Tin lành Kinh thánh nói bà Maria sau khi sinh Chúa Giêsu còn sinh
cho ông Giuse một số người con khác một cách bình thường. Một số phái Tin lành
đã trích dẫn những câu Kinh thánh nói về việc bà Maria có con thêm với ông
Giuse. Do vậy, đạo Tin lành chỉ kính trọng chứ không tôn thờ lạy bà Maria như
đạo Công giáo. Bà Maria chỉ có công sinh và nuôi dạy Chúa Giêsu, chứ không phải
là mẹ của Thiên Chúa.
Đạo Tin lành có tin Thiên sứ,
có các thánh Tông đồ, các Thánh tử đạo và các Thánh khác, nhưng cũng chỉ kính
trọng và noi gương, chứ không tôn sùng và thờ lạy họ như đạo Công giáo. Đạo Tin
lành không thờ các tranh ảnh, hình tượng cũng như các di vật khác. Không tôn
sùng và thực hiện hành hương đến các Thánh địa, kể cả Giêrusalem, núi Xinai,
đền thánh Phêrô và Phaolô.
Đặc biệt, đạo Tin lành không thờ lạy các hình tượng và họ cho rằng Kinh
thánh đã dạy: “Hình tượng là công việc do tay con người làm ra, hình tượng có
miệng mà không nói, có tai mà không nghe, có lỗ mũi mà chẳng ngửi, có tay nhưng
không rờ cầm, có chân mà không bước đi,… phàm kẻ nào làm hình tượng mà nhờ cậy
nơi đó điều giống nó ”.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, đạo Tin lành có dùng một số tranh ảnh,
hình tượng trong sinh hoạt tôn giáo nhưng mang ý nghĩa tài liệu để giảng giải,
truyền thụ.
Đạo Tin lành tin có Thiên đàng, Hỏa ngục nhưng không quá coi trọng tới
mức dùng nó làm công cụ khuyên thưởng răn đe, trừng phạt đối với con người. Đạo
tin lành không có Luyện ngục, nơi tạm giam các linh hồn mắc tội nhẹ đang chờ
cứu vớt như đạo Công giáo. Họ cho rằng Kinh thánh chỉ nói đến Thiên đường, Hỏa
ngục, không nói đến Luyện ngục.
2- Luật lệ, lễ nghi: Trong đời sống tín ngưỡng, đạo Tin lành là một tôn
giáo đặc biệt đề cao lý trí trong đức tin, cho rằng sự cứu rỗi chỉ đến bởi đức
tin chứ không phải vì những “ hình thức ngoại tại” (tức là không phải vì các
luật lệ, lễ nghi). Do đó, luật lệ, lễ nghi, cách thức hành đạo của đạo Tin lành
đơn giản không cầu kỳ, rườm rà như đạo Công giáo.
Trong bảy phép Bí tích của đạo Công giáo (Rửa tội, Thêm sức, Giải tội,
Thánh thể, Sức dầu, Truyền chức, Hôn phối) đạo Tin lành chỉ thừa nhận và thực
hiện phép Rửa tội (Bắptem), phép Thánh thể. Vì họ cho rằng Kinh thánh chỉ nói
đến những phép đó mà thôi. Một số phái Tin lành có thêm lễ Dâng con trẻ cho
Thiên Chúa, dựa theo tích trong Cựu ước rằng A-bra-ham đã dâng con trai là
Y-Sác cho đức Giê –hô- va.
Đạo Tin lành cho rằng phép Bắptem
không phải tẩy trừ tội lỗi một cách linh nghiệm mà đó là sự thay cũ đổi
mới của mỗi con người, một sự liên lạc bằng lương tâm và lý trí đối với Chúa
trời. Do vậy, người chịu Bắp tem phải đủ tuổi để hiểu biết các lẽ đạo, và nhất
là phải ăn ở trong sạch, không được phạm tội. Nghi lễ Bắp tem của đạo Tin lành
được tiến hành theo lối cổ như thánh Gioan rửa tội cho Chúa Giêsu trên sông Gio
Đăng bằng cách dìm cả người xuống nước, chứ không dội ít nước lên đầu một cách
tượng trưng như Công giáo.
Nguyên thủy đạo Tin lành có 3 quan điểm về Lễ Thánh thể: Martin Luther
tuy tuyên bố không công nhận “thuyết biến thể” nhưng lại cho rằng bánh và rượu
trong Lễ Thánh thể cũng là máu thịt Chúa Giê su, uống rượu và ăn bánh là uống
máu và ăn thịt Chúa Giê Su; U.Zuingli cho rằng Lễ Thánh thể chỉ đơn thuần kỷ
niệm về sự chết của Chúa Giê su, bánh và rượu chỉ có ý nghĩa vật chất; J.
Calvin dung hòa quan điểm của Luther và Zmingli, rằng rượu và bánh trong Lễ
Thánh thể vừa có ý nghĩa vật chất (ở bên ngoài), vừa có ý nghĩa thuộc linh (ở
bên trong). Trong quá trình phát triển, tuy các phái Tin lành còn có những quan
điểm khác nhau về Lễ Thánh thể nhưng nhìn chung đều phủ nhận “thuyết biến thể”
của đạo Công giáo. Đa số phái Tin lành cho rằng Lễ Thánh thể là kỷ niệm về ngày
chết của Chúa Giêsu chuộc tội cho loài người, qua đó nhắc nhở con người sống
xứng đáng với Thiên Chúa. Lễ Thánh thể của đạo Công giáo được tiến hành với
nghi thức rườm rà, tín đồ chỉ được ăn “ Bánh thánh ” còn “Rượu thánh” không
được uống mà dành cho các giáo sĩ. Đạo Tin lành thực hiện lễ Thánh thể đơn giản
hơn, tất cả tín đồ và giáo sĩ cùng uống rượu và ăn bánh. Lễ Thánh thể thường
được tổ chức vào chủ nhật đầu tiên của từng tháng.
Ngoài hai phép Bắptem và Mình thánh, đạo Tin lành duy trì các lễ như lễ Noel,
lễ Phục sinh, lễ dâng con trẻ cho Chúa, lễ Hôn phối và các lễ khác cho người
quá cố…
Đạo Công giáo cho rằng con người không những phải làm việc thiện mà còn
phải hãm mình để chuộc tội. Đạo Tin lành lại quan niệm rằng việc chuộc tội cho
loài người đã có Chúa Giê su làm trọn rồi. Con người làm việc thiện để tỏ ra
xứng đáng với Thiên Chúa. Con người phải có đức tin mới được cứu vớt.
Tín đồ Công giáo xưng tội trong tòa kín với linh mục là hình thức chủ yếu
nhất, còn tín đồ Tin lành xưng tội trực tiếp với Thiên Chúa. Đạo Công giáo đặt
ra nhiều bài kinh để cho mọi người cầu nguyện hàng ngày (quen gọi là Kinh nguyện) Đạo Tin lành chỉ
tin có Kinh thánh, dùng Kinh thánh trong tất cả các sinh hoạt tôn giáo. Khi
xưng tội cũng như khi cầu nguyện, tín đồ đạo Tin lành có thể đứng giữa nhà thờ,
trước đám đông để sám hối hoặc nói lên ý nguyện của mình một cách công khai.
Nhà thờ (thánh đường) của đạo Công giáo được xây dựng tốn kém, kiến trúc
đồ sộ theo lối cổ, bài trí công phu cầu kỳ và cho rằng đó là Nhà Chúa- nơi Chúa
ngự một cách linh thiêng, đặc biệt, trong và ngoài nhà thờ, treo nhiều ảnh
tượng. Nhưng trái lại, nhà thờ đạo Tin lành thường kiến trúc hiện đại, đơn
giản, trong nhà thờ không có tượng ảnh, chỉ có cây thập giá biểu tượng Chúa
Giêsu chịu nạn. Trong nhiều trường hợp đạo Tin lành chỉ sử dụng những phòng họp
hoặc hội trường đôi khi một nhà tạm của tín đồ dùng để làm điểm nhóm lễ, chia
sẻ lời Chúa trong kinh thánh.
b. Chức sắc và tổ chức giáo hội:
Chức sắc của đạo Tin lành gồm các chức vụ: mục sư (tên gọi theo kinh
thánh) và dưới mục sư là là truyền đạo (còn gọi là giảng sư). Hiện nay Hội
thánh Việt Nam miền Nam và miền Bắc đều thống nhất gọi truyền đạo là mục sư
nhiệm chức. Một số phái Tin lành vẫn duy trì chức giám mục, nhất là những hệ
phái chịu ảnh hưởng của Anh giáo. Chức sắc Tin lành chủ yếu là nam, nhưng cũng
có một số phái có tuyển chọn cả phụ nữ và nhìn chung họ không giữ chế độ độc
thân. Chức sắc đạo Tin lành tuy được coi là “người chăn bày” nhưng không có
thần quyền, tức là không có quyền thay mặt Thiên Chúa ban phúc, tha tội cho tín
đồ, không phải là cầu nối trung gian trong mối quan hệ giữa tín đồ đạo Tin lành
với đấng thiêng liêng. Quan hệ giữa giáo sĩ với tín đồ bình đẳng, cởi mở. Có hệ
phái Tin lành bầu ra mục sư, truyền đạo theo thời gian. Chức sắc đạo Tin lành
hoạt động dưới sự kiểm soát của tín đồ, hàng năm tín đồ bỏ phiếu tín nhiệm mục
sư (hoặc truyền đạo) quản nhiệm Hội thánh cơ sở.
Đạo Tin lành chủ trương xây dựng các giáo hội độc lập với những hình thức
cơ cấu khác nhau, tùy thuộc vào từng hệ phái và hoàn cảnh điều kiện cho phép.
Có hệ phái Tin lành duy trì cơ cấu 2 cấp Trung ương và Hội thánh cơ sở (chi
hội), có hệ phái Tin lành duy trì thêm cấp trung gian là Giáo khu hay Địa hạt (tương
đương như Giáo phận của đạo Công giáo). Nhân sự lãnh đạo các cấp giáo hội theo
nhiệm kỳ thông qua bầu cử dân chủ (trực tiếp, bằng phiếu kín, từng chức danh).
Thành phần lãnh đạo Giáo hội không chỉ có mục sư, truyền đạo mà có cả tín đồ
tham gia. Đặc biệt, các hệ phái Tin lành đều trao quyền tự quản cho hội thánh
cơ sở với tinh thần tự lập, tự dưỡng, tự truyền. Các hệ phái Tin lành không
ngăn cản tín đồ, chức sắc tách ra để gia nhập các hệ phái khác hoặc đứng độc
lập.
Đạo Tin lành thường có hai sinh hoạt về mặt tổ chức là Bồi linh và Hội
đồng (đại hội đại biểu). Bồi linh còn gọi là Hội đồng linh tu được tổ chức hàng
năm theo các cấp giáo hội để nâng cao trình độ giáo lý, thần học cho tín đồ,
mục sư, truyền đạo. Tùy theo cấp tổ chức bồi linh mà thành phần tham dự khác
nhau. Nếu bồi linh cấp trung ương thì chỉ có các mục sư, truyền đạo và những
chức vụ chủ chốt của các chi hội. Nếu bồi linh ở cấp chi hội thì mở rộng đến
các tín đồ. Đại hội đại biểu ở cấp chi hội thường họp mỗi năm một lần, gọi là
Hội đồng thường niên. Hội đồng ở chi hội có nhiệm vụ tổng kết công việc trong
một năm và bàn chương trình hoạt động của năm tới, bầu ban chấp sự, bỏ phiếu
tín nhiệm mục sư, truyền đạo chủ tọa và bầu chọn đại biểu đi dự Đại hội đồng
cấp trên (nếu trùng nhiệm kỳ của Đại hội đồng). Đại hội đại biểu trên cấp chi
hội là Đại hội đồng. Thành phần tham dự Đại hội đồng là các mục sư, truyền đạo
và đại biểu tín đồ được cử ở các chi hội.
Đại hội đồng tổ chức theo nhiệm kỳ để giải quyết các công việc nội bộ,
xây dựng hoặc sửa đổi hiến chương (Điều lệ) và bầu nhân sự lãnh đạo giáo hội.
c- Một số nhận xét về đạo Tin lành:
Qua phân tích quá trình ra đời, phát triển, giáo lý, giáo luật, lễ nghi,
tổ chức giáo hội, có sự khái khoát một số nét đặc trưng cơ bản của đạo Tin lành
như sau:
1-Đạo Tin lành là tôn giáo tách ra từ đạo Công giáo ở thế kỷ 16 cùng với
sự xuất hiện của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản. Nội dung cải cách chịu ảnh
hưởng sâu sắc tư tưởng dân chủ tư sản, ý chí tự do cá nhân. Trong sinh hoạt tôn
giáo, đạo Tin lành đề cao vai trò cá nhân. Trong sinh hoạt về tổ chức, đạo Tin
lành đề cao tinh thần dân chủ. Các luật lệ, lễ nghi, cách thức hành đạo, cơ cấu
tổ chức của đạo Tin lành đơn giản, nhẹ nhàng không rườm rà, gò bó như đạo Công
giáo.
2 – Những nội dung cải cách đã làm cho đạo Tin lành trở thành một tôn
giáo có mầu sắc mới mẻ, thích hợp với
giai cấp tư sản, tiểu tư sản, công chức, trí thức… thị dân nói chung trong xã
hội công nghiệp. Đặc biệt với lối sống đạo nhẹ nhàng, đề cao đức tin và vai trò
cá nhân, đạo Tin lành duy trì tín ngưỡng trong mọi hoàn cảnh chính trị, xã hội,
kể cả những khi bị o ép, cấm cách.
3- Đạo tin lành là tôn giáo có đường hướng và phương thức hoạt động rất
năng động, luôn đổi mới từ nội dung đến hình thức để thích nghi với hoàn cảnh
xã hội. Đặc biệt, đạo Tin lành tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội, nhất là lĩnh vực từ thiện nhân đạo,
lấy đó làm phương tiện mở rộng ảnh hưởng. Điều này tạo ra uy tín và khả năng
tiếp cận, chung sống với nhiều chế độ chính trị khác nhau.
4-Ngoài lớp thị dân, đối tượng truyền đạo quan trọng thứ hai của đạo Tin
lành là các đồng bào các dân tộc thiểu số. Đó là những vùng đất mới- nơi chưa
có tôn giáo chính thống hoặc tôn giáo, tín ngưỡng cũ đang suy thoái, mất uy tín,
nơi đời sống dân sinh, trình độ dân trí thấp. Truyền đạo đến những vùng này,
đạo Tin lành không những phát huy lợi thế vốn có “đơn giản về luật lệ, lễ nghi,
cách thức hành đạo” mà còn nghiên cứu rất kỷ đặc điểm lịch sử, văn hóa, tâm lý,
lối sống, phong tục, tập quán của từng dân tộc, chủ động địa phương hóa, dân
tộc hóa để dễ dàng hòa nhập.
5 -Ra đời, phát triển cùng với giai cấp tư sản cho nên đạo Tin lành có
mối quan hệ khá chặt chẻ với giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản sử dụng đạo Tin
lành như một thứ vũ khí trong các cuộc cách mạng tư sản ở thời kỳ đầu và việc
tìm kiếm thị trường phát triển lực lượng, kể cả việc lợi dụng các cuộc chiến
tranh xâm lược mà giai cấp tư sản tiến hành.
6- Tuy nhiên, trong từng thời kỳ lịch sử, từng tổ chức hệ phái Tin lành,
mối quan hệ nói trên có sự thay đổi ở từng nước, từng khu vực. Thời gian sau
này, đạo Tin lành chịu ảnh hưởng của các xu hướng tiến bộ trên thế giới nên
nhiều phái Tin lành tách dần khỏi sự kiềm tỏa của các thế lực chính trị.
Nguồn: btgcp.gov.vn.
Trích – Luật tín ngưỡng Tôn
giáo, tìm hiểu về lễ hội tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo….
0 nhận xét:
Đăng nhận xét