CẦU SIÊU BẠT ĐỘ
Người
xuất gia từ bỏ gia đình, không làm việc phò vua giúp nước bị coi là trái với truyền thống phong tục của người Trung Hoa thời
xưa. Vì vậy, khi Phật giáo mới du nhập vào nước Trung Hoa đã bị Nho gia đả kích
mạnh mẽ, nhưng các nhà tu hành Phật giáo bây giờ đã cố gắng tạo mối quan hệ giữa
hai nền văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ, tìm cách hài hòa tư tưởng xuất thế của Phật
giáo với tư tưởng nhập thế của Nho giáo. Với tài kết hợp khéo léo của các nhà
truyền giáo đã tạo thành nét đặc sắc cho Phật giáo Trung Hoa thể hiện được sự
hài hòa tư tưởng Khổng Mạnh, Lão Trang của Trung Hoa với thế giới tâm linh của Ấn
Độ và cũng tạo cho nền văn hóa Trung Hoa thêm phần phong phú. Xây dựng trên nền
tảng như vậy, có thể nói ngày nay Phật giáo Trung Hoa đại diện cho ba nền văn
minh là tư tưởng Khổng Mạnh, Lão Trang, văn minh Ấn Độ và tư tưởng Phật giáo.
Về
việc báo hiếu, báo ân, truyền thống Khổng Mạnh của Trung Hoa chủ trương phò vua
giúp nước, nối nghiệp hương khói của gia đình. Quan niệm này đã tạo thành khoảng
trống không thể lấp đầy đối với người đã qua đời.
Thật
vậy, việc siêu độ cho vong linh của người quá cố trở thành quan trọng với mọi
người. Người sống làm việc đã có công với gia đình, với xã hội, với dân tộc, với
tổ quốc, nhưng khi họ chết, thì giải quyết cách nào đây. Nhớ đến nỗi khổ của họ,
cần phải làm gì cho họ hết khổ. Đó là vấn đề lớn được đặt ra cho người dân
Trung Hoa và nỗi ám ảnh lớn nhất đối với họ là hình ảnh của những anh hùng
Lương Sơn Bạt đã tập hợp quần chúng khởi nghĩa chống lại cái ác đã phải chết
trong oán hận, trong đau khổ của chiến tranh.
Bắt
nguồn từ sự bức xúc về tâm linh như thế, Phật giáo Đại thừa đã đưa ra thuyết
siêu độ vong linh và quả thực đã đáp ứng được yêu cầu của xã hội Trung Hoa từ đời
Đường. Đọc lịch sử chúng ta thấy chính vua Đường Thái Tông đã đem quân đi chinh
phục nhiều nước, nhiều bộ tộc tất nhiên đã sát hại rất nhiều sinh mệnh và ngay
cả trong gia đình ông cũng giết hại lẫn nhau. Vì thế, ngồi trên ngai vàng hưởng
thụ mọi thứ vật chất xa hoa, ông vẫn bị ám ảnh trầm trọng về cảnh tượng giết
chóc do chính ông tạo ra.
Bị
lương tâm giày vò và sợ hãi đến cùng cực vì nhìn đâu cũng thấy hồn ma hiện ra
đòi mạng, cho nên vào cuối cuộc đời, nhà vua đã nhờ Pháp sư Huyền Trang làm lễ
siêu độ cho tất cả hương linh của người thân thích với ông và cả những kẻ oán
thù, với niềm mong mỏi rằng tất cả hương hồn đều rũ bỏ mọi ân oán để được sống
an vui ở chốn thiên đường. Như vậy, việc
cầu siêu bạt độ cho hương linh vào ngày rằm tháng 7 đã xuất phát từ đời Đường
và được dân chúng chấp nhận, tin theo, lưu truyền cho đến ngày nay.
Ngoài
ra, ngày rằm tháng 7 là mùa mưa dầm gió bấc khiến người ta dễ liên tưởng đến tất
cả vong linh đang bị đói lạnh, hoặc khổ đau trong những cảnh giới siêu hình. Vì
thế, Phật giáo Trung Hoa đã khéo kết hợp ngày rằm tháng 7 với mùa Vu lan theo
kinh Vu lan bồn và cũng là ngày Tự tứ của chư Tăng Phật giáo Bắc tông.
Sau
khi Phật Niết bàn, Phật giáo truyền bá khắp năm châu, ngày tháng an cư và Tự tứ
đã thay đổi tùy theo quốc gia. Nhưng tựu
trung, có hai mẫu an cư theo hệ Nam tông Phật giáo và Bắc tông Phật giáo. Phật giáo Nam tông chủ trương kế thừa hình thức
giống y Phật giáo Nguyên thủy ở Ấn Độ thời Phật còn tại thế. Tổ chức an cư kiết
hạ của Nam tông từ tháng 6 đến tháng 9 và lấy ngày rằm tháng 9 làm ngày Tự tứ,
vì chư Tăng Nam tông giữ y theo lịch Ân
Độ, một năm có ba mùa và tháng 5 đến tháng 9 là mùa mưa.
Trái
lại Phật giáo Bắc tông chú trọng việc kế thừa tư tưởng. Vì vậy, khi Phật giáo
du nhập vào quốc gia nào, tùy theo sinh hoạt văn hóa truyền thống nơi đó mà chư
Tăng uyển chuyển kết hợp giáo lý để giúp cho mọi người thăng hoa giải thoát.
Khi
Phật giáo truyền sang Trung Hoa các nhà sư Bắc tông quan sát thực trạng xã hội
Trung Hoa thời ấy đang chịu ảnh hưởng tư tưởng Lão Trang, Khổng Mạnh, cùng các
phong tục tập quán có sẵn lâu đời. Thí dụ một năm có ba ngày lễ lớn mà dân gian
thường tổ chức là lễ Thượng nguyên vào ngày rằm tháng 1, lễ Trung nguyên vào
ngày rằm tháng 7, và lễ Hạ nguyên vào ngày rằm tháng 10. Việc thay đổi ngay những
tồn tại khách quan này không phải là vấn đề đơn giản.
Và
các nhà truyền giáo Bắc tông đã khéo léo hòa nhập với cuộc sống địa phương để
phật tử tu hành không chống trái với truyền thống dân tộc của họ. Với tinh thần
bao dung, kết hợp như vậy, Phật giáo Trung Hoa đã tổ chức an cư kiết hạ từ
tháng 4 đến tháng 7, thay vì theo Phật giáo Nguyên thủy từ tháng 5 đến tháng 9.
Vì ở Trung Hoa có 4 mùa, không phải 3 mùa như Ấn Độ và mùa mưa ở Trung Hoa từ
tháng 4 đến tháng 7.
Vì
vậy, sự thay đổi mùa an cư kiết hạ của Phật giáo Trung Hoa cho phù hợp với thời
tiết của địa phương mà vẫn giữ được tinh thần chính yếu của cấm túc an cư do Phật
chế ra. Ngoài ra Phật giáo Trung Hoa tổ chức lễ Vu lan cầu siêu bạt độ vào ngày
Tự tứ là ngày rằm tháng 7 cho thích hợp với phong tục của dân chúng Trung Hoa
vào lễ Trung nguyên. Nhờ sự vận dụng giáo pháp thích nghi với đời sống và nếp
nghĩ của người Trung Hoa, Phật giáo mới tạo được vị trí vững chắc trong lòng xã
hội và tồn tại đến ngày nay.
Với
trí tuệ thấy đúng như thật để ứng dụng giáo nghĩa cho hài hòa với tập tục địa
phương, Phật giáo Bắc tông dần dần thay đổi ngày lễ truyền thống địa phương
thành lễ của Phật giáo với những sắc thái đặc thù, riêng biệt. Trên tinh thần
này, lễ Vu lan vào ngày rằm tháng 7, theo lý giáo của Phật giáo Đại thừa thì
không khác gì ngày rằm tháng 9 của Phật giáo Nguyên thủy. Vì pháp chính yếu
không phải ở vấn đề thời gian. Mục tiêu của lễ Vu lan chúng ta cần thực hiện là
cầu nguyện và cúng dường như thế nào để người quá cố và người sống đều lợi lạc.
Nói
chung, các nước Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên
đều chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa. Vì thế, khi Phật giáo truyền sang
các nước này, lễ cầu siêu cho cửu huyền thất tổ cũng được tổ chức vào ngày rằm
tháng 7 giống như ở Trung Hoa. Ngày nay
các nước theo Bắc tông còn thay đổi ngày giờ cho thích hợp với địa phương như
trường hợp ở Nhật, lễ Vu lan theo dương lịch, tức ngày 15 tháng 7 dương lịch.
Còn Việt Nam thì có hậu an cư tức 16 tháng 5 đến 15 tháng 8 mới làm lễ Tự tứ.
Thiết
nghĩ mọi sinh hoạt, kể cả hoạt động tín ngưỡng được chấp nhận và tồn tại đương
nhiên đều có lý do của nó. Lễ cầu siêu mà người dân tổ chức cho người thân
thích hay để giải oan cho người đã khuất, có thể nói quả là cần thiết đối với họ,
vì không làm lễ siêu độ, không hướng tâm cầu nguyện thì chính họ cảm thấy nặng
nề, không an lòng, không được nhẹ nhàng. Cảm giác đó của con người chính là thế
giới tâm linh hiện hữu thực sự và đó cũng là lý do tồn tại của các lễ trai đàn
cầu siêu bạt độ.
Tuy
nhiên, kết quả cầu siêu có được hay không tùy thuộc ở niềm tin của người tổ chức
trai đàn và cũng tùy thuộc ở đức hạnh của người chủ trì lễ cúng tế. Nếu người tổ
chức có lòng thành và người chủ trì lễ cầu siêu có đời sống tâm linh trong sáng
thực sự thì có thể hóa giải mọi oan gia nghiệp chướng cho người quá cố.
Trong
mùa Vu lan, muốn hồi hướng cầu siêu cho tất cả
hương linh, mong rằng người tổ chức trai đàn nên có niềm tin thực sự và
mời được các vị chân tu đức hạnh, thanh tịnh và giải thoát để tạo thành đạo lực
gia trì cho người quá vãng được siêu sanh Tịnh độ và người hiện diện tăng tiếng
đạo Bồ đề.
( Trích NSGN số 293- 8/2020 -
HT Thích Trí Quảng. )
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét