CẢM NHẬN VỀ ĐỨC PHẬT QUAN THẾ ÂM
VÀ PHẨM PHỔ MÔN.
Huỳnh Ngọc Chiến – pd Nguyên Hòa
Phật bà Quan
Thế Âm hay Bồ Tát Quán Thế Âm, là hình ảnh quá quen thuộc và thân thương của
tín đồ Phật giáo ở châu Á, đặc biệt là ở Trung Quốc và Việt Nam. Đối với Phật tử
Trung Quốc, đó là hình ảnh một phụ nữ mỹ lệ mặc áo choàng trắng, với khuôn mặt
đoan trang hiền dịu, một tay cầm bình nước Cam Lồ, một tay cầm nhành dương liễu,
đứng uy nghiêm trên tòa sen, nơi rừng trúc tía ở biển Nam Hải. Còn ở Việt Nam,
hầu như chùa nào cũng dựng tượng Đức Quan Thế Âm theo hình ảnh đó trước sân
chùa. Đặc biệt là có những pho tượng vô cùng to lớn, như tượng Đức Quan Thế
Âm của chùa Linh Ứng, thành phố Đà Nẵng.
Sự thờ cúng Đức
Quan Thế Âm trong nhân gian đã phổ biến đến mức hầu như nó có thể tách ra khỏi
khối tín ngưỡng Phật giáo để trở thành một khối tín ngưỡng độc lập. Với pháp hiệu
“ Đại Từ, Đại Bi, Cứu Khổ Cứu Nạn”,
Ngài được xem là biểu tượng của sự cứu rỗi, luôn sẵn sàng hiện ra muôn ngàn
thân tướng thích hợp để cứu giúp chúng sanh đắm chìm trong bể khổ. Ở Trung Quốc,
Đức Phật Quan Thế Âm thậm chí còn là vị Bồ tát mang đến niềm vui cho những cặp
vợ chồng hiếm muộn. Thậm chí trong văn học
Trung Quốc, khi nói đến hai chữ “ Bồ tát”
là người ta liên tưởng ngay đến Đức Phật Quan Âm. Nhưng lâu nay vẫn không ít
các cuộc tranh luận liệu Đức Phật Quan Thế Âm là vị Phật có thực hay chỉ là một
sản phẩm tưởng tượng ? Đã có khá nhiều bài viết về vấn đề này, ở đây tôi chỉ
xin trình bày những suy ngẫm nhỏ của mình, qua những gì cảm nhận được từ những
trang kinh Phật.
Sự tồn tại của
Đức Quan Thế Âm đa số là dựa vào truyền thuyết. Những người tin rằng Đức Quan
Thế Âm là một nhân vật lịch sử thì cố dẫn chứng trong kinh điển để chứng minh
cho rằng Ngài có thật. Nhưng rất tiếc là hiện nay không có một sử liệu đáng tin
cậy nào nói về xuất thân của Ngài, dù những tín đồ tin Đức Phật Quan Thế Âm là
một nhân vật lịch sử còn cho rằng một kiếp nào đó, Ngài đã từng là thái tử của
vua Vô Tránh Niệm, tên là Bất Huyền. Thậm chí, người ta còn cẩn thận ghi lại
các ngày kỷ niệm như ngày 19-2 là ngày vía Đức Phật Quan Thế Âm đản sinh, ngày
19/6 là ngày Ngài thành đạo, ngày 19/9 là ngày Ngài xuất gia.
Những người
không tin Đức Phật Quan Thế Âm là một nhân vật lịch sử thì yêu cầu phải có chứng
cứ trong sử liệu xác thực, không phải một mà là nhiều và có giá trị đối chứng,
để chứng minh cho sự tồn tại của Ngài. Nhưng đôi khi sử liệu chưa hẳn là bằng
chứng có giá trị và mang tính thuyết phục để chứng minh sự tồn tại của một nhân
vật nào đó trong lãnh vực tâm linh hay tôn giáo. Chính sự hiện hữu trong huyền
thoại lại mang thêm sức mạnh tâm linh của những nhân vật có năng lực siêu
nhiên. Thử hỏi có một tư liệu hay sử liệu nào nói về Chúa Jesus, ngoài những gì
được môn đồ Ngài ghi chép lại trong Tân Ước vào mấy trăm năm sau ? Vậy liệu các học giả nào có thể dùng “tinh thần khoa học” để phản bác hoặc
nghi ngờ sự tồn tại của Chúa Jesus chăng ?
Những người
cho rằng Đức Phật Quan Thế Âm là một nhân vật tưởng tượng hoang đường, để củng
cố lập luận của mình, còn cố dựa vào uy tín của các tu sĩ nổi tiếng để viện dẫn
bằng chứng cụ thể là trong thiền viện của thiền sư X. hay tự viện của Hoàng thượng
Y, v.v…hoàn toàn không có thờ Đức Phật Quan Âm. Để rồi từ đó khẳng định rằng Đức
Phật Quan Âm không có thực. Lập luận và suy diễn kiểu đó chẳng khác nào một nhà
nghiên cứu âm nhạc thấy nghệ nhân quan họ hoặc ca sĩ cải lương không bao giờ
hát nhạc opera nên khẳng định dòng nhạc opera không có thực .
Tôi cho rằng
các cuộc tranh luận đó đều vô nghĩa và không đáng để quan tâm, ngoại trừ những
sử gia muốn tìm chứng cứ theo quan điểm sử học, vì những người tranh luận không
phân biệt được giá trị lịch sử với giá trị tâm linh.
Phật giáo chủ
trương khước từ thế giới của chư thần, chỉ dạy chúng ta dùng trí tuệ quán chiếu
vào bản chất Như Thực của cuộc sống để đạt đến trạng thái giải thoát. Không hề
có Thượng Đế hay một Đấng Cứu Thế toàn năng nào can dự vào quá trình tu tập đó
cả. Chính vì thế mà có nhiều nhà nghiên cứu phương Tây cho rằng Phật giáo không
phải là một tôn giáo. Có một đôi người bắt bẻ rằng Nghiệp trong Phật giáo thực
ra cũng chỉ là tên gọi khác của Thượng Đế mà thôi, vì Nghiệp chi phối toàn bộ
cuộc sống, song họ quên mất một điều là tuy Nghiệp cũng “ toàn năng” như Thượng
Đế, nhưng nó vận động theo luật nhân quả chứ không có ý chí như Thượng Đế của
những tôn giáo hữu thần. Dù Phật giáo chủ trương “ Duy Tuệ Thị Nghiệp”, vậy mà
trải qua hàng ngàn năm truyền giáo, vô số chư vị Bồ tát quảng đại thần thông
cùng vô số chư thần lại lần lượt được sản sinh ra trong giáo lý Phật giáo.
Không riêng gì Đức Phật Quan Âm mà hầu như mọi vị Bồ tát trong giáo lý Đại thừa
cũng đều xuất hiện từ cuộc hôn phối giữa Phật giáo với các tín ngưỡng bình dân
bản địa và yêu sách của tâm linh, trong quá trình truyền bá. Các vị Bồ tát đó
xuất hiện khắp cõi tam thiên đại thiên thế giới để đáp ứng lại tín ngưỡng bình
dân của đại chúng. Đức Phật Quan Âm là
biểu tượng của Đại Bi, cũng như Bồ tát Văn Thù là biểu tượng của Đại Trí trong
kinh điển Đại thừa.
Thử hỏi có
bao nhiêu Phật tử tiêu hóa nổi tư tưởng Duy thức ? Có bao nhiêu Phật tử cảm nhận
được giáo lý cao siêu “ sắc tức thị không, không tức thị sắc” của Bát Nhã Tâm
Kinh, hay “ ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” của kinh Kim Cương ? Đâu phải Phật tử nào tìm đến Phật giáo cũng đều
mong cầu giác ngộ hay giải thoát, mà đa số tín đồ lại là đại chúng bình dân
luôn cần một điểm tựa trong đời sống tinh thần để hướng đến cõi thiện, mà không
cần phải hiểu biết những giáo lý cao thâm. Họ cần có một Đấng Thiêng Liêng Thần
Thông Quảng Đại, thương yêu chăm lo cho họ như một người Mẹ Hiền trong những
tình huống ngặt nghèo, để giúp họ vượt qua được những khổ nạn trong cuộc sống,
mà khoa học và tiền bạc cũng không giúp gì được. Bản chất con người đa số là yếu
đuối. Dũng mãnh tiến bước để vượt qua bao nỗi khổ đau trên đường tu tập, điều
đó có lẽ chỉ dành cho những bậc thượng căn. Dù là tôn giáo đòi hỏi đến tự lực
và trí tuệ, nhưng Phật giáo không thể ngoảnh mặt trước sự khổ đau của bao chúng
sanh yếu đuối. Liệu luận sư vĩ đại như Bồ tát Long Thọ với những tác phẩm thâm
diệu về tánh Không, hay Bồ Đề Đạt Ma với tông chỉ “ trực chỉ nhân tâm, kiến
tánh thành phật”, v.v …có giúp gì được cho những chúng sanh căn cơ chậm lụt nhưng
đang khát khao cần đến sự an lạc tâm linh ? Đức Phật Quan Âm xuất hiện chính là
để đáp ứng cho nhu cầu đó. Ngài không bước ra từ lịch sử, mà bước ra từ khát vọng
tâm linh tiềm ẩn trong vô thức của muôn triệu chúng sanh qua rất nhiều thế hệ.
Đức Phật Quan Âm, cũng như nhiều hình tượng Bồ tát khác trong Phật giáo, đều là
“ phương tiện thiện xảo” trong lộ trình hóa độ chúng sanh.
Với tôi, tất
cả tượng Phật đều là ngẫu tượng ( là tượng làm bằng đồng, gỗ, đá v.v… ), nhưng
khi ta chí tâm đảnh lễ trước tượng Đức Phật Quan Âm hoặc Phật A Di Đà thì đó là lúc ta có cơ duyên đối diện với cảnh giới
tâm linh siêu nhiên. Ta không phải đang cúi lạy trước các ngẫu tượng mà chính
là đang lễ bái thế giới tâm linh trang nghiêm trong ta. Lý trí sẽ khép lại để
cho thế giới tâm linh hiển lộ. Đức Phật Quan Âm hay Đức Phật A Di Đà đều không
có thực theo ý nghĩa lịch sử thế tục, nhưng lại vô giá về phương diện tâm linh.
Sợ hãi để giữ tâm trang nghiêm trước những điều huyền ẩn là thiên hướng tâm
linh thường tình của con người. Người nào từng đứng một mình trước biển giữa
đêm khuya vắng lặng giữa tiếng sóng vỗ ì ầm vào gành đá, hoặc từng lắng nghe tiếng
gió rít từng cơn giữa canh khuya ở một nơi đìu hiu cô tịch sẽ hiểu được cảm
giác kỳ diệu đó. Cái hùng vĩ bao la đầy bí ẩn của trời đất khiến ta kinh sợ,
nhưng điều đó có thể giúp tâm thức con người hướng đến những điều thiêng liêng
tốt đẹp, và tạo nên những cảm xúc cho thi ca, nghệ thuật, và cho cả tôn giáo.
Nhưng tin tưởng vào sức mạnh siêu nhiên từ cõi huyền ẩn đó để cầu xin ơn phước
hay tài lộc là điều cực kỳ nhảm nhí từ tâm lý mê tín của những người mê muội.
Cho dù Đức Phật
Quan Âm chỉ là biểu tượng tâm linh chứ không phải là nhân vật lịch sử theo cách
hiểu của thế tục, nhưng ta thử xem diệu dụng của việc niệm danh hiệu Đức Quan
Thế Âm qua những gì trình bày trong phẩm Phổ Môn của Kinh Pháp Hoa.
Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục,
thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ tát, liền được ly dục.
Nếu có chúng sanh nào nhiều giận hờn,
thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ tát, liền được lìa lòng giận.
Chúng ta dễ
chấp nhận điều đó, vì khi một tín đồ chí tâm niệm danh hiệu Đức Quan Thế Âm thì
những điều trên có thể ứng nghiệm. Nhưng đối với những đoạn sau :
Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng
danh hiệu Quan Thế Âm Bồ tát, thì dao gậy của người cầm liền gãy từng khúc, người
ấy liền thoát khỏi…
Dầu
lại có người hoặc có tội hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi
thân, xưng danh hiệu Quan Thế Âm Bồ tát thảy đều đứt rã, liền được giải
thoát ( bản dịch của HT Thích Trí Tịnh ).
Chỉ những ai ngây thơ lắm mới tin
được những điều nói trên theo nghĩa đen. Nếu ta cứ “ y kinh giải nghĩa” thì thấy toàn là những điều phi lý, thậm chí là
mê muội. Bị côn đồ tấn công, nếu không có khả năng tự vệ, dầu có niệm danh hiệu
Đức Phật Quan Âm một ngàn lần, chắc chắn vẫn bị tổn thương. Còng số 8 khóa vào
tay thì dầu có niệm danh hiệu Đức Quan Thế Âm một vạn lần đi nữa, vẫn không tài
nào có thể thoát được. Đó là thực tế. Nhưng đối với những tín đồ thành tâm tin
tưởng vào oai lực của Đức Quan Thế Âm thì đoạn kinh trên lại là những lời rất
thật. Năng trừ nhất thiết khổ, chân thật
bất hư. Diệu dụng của lời kinh chỉ
diễn ra trong thế giới nội tâm, chứ không phải trong thế giới thực. Lúc thọ nạn
mà ta giữ được tâm an lạc, tự nhiên ta sẽ không còn sợ hãi, xem mọi biến cố nhẹ
tựa lông hồng. Tâm an lạc đó sẽ hóa giải hết mọi khổ đau và chướng ngại trong đời.
Có gì trên cõi đời này có thể làm tổn hại được một người có tâm an lạc và vô
nhiễm ? Và niệm danh hiệu Đức Quán Thế
Âm là phương tiện để đạt đến trạng thái an lạc và vô nhiễm được mô tả trong
kinh. Vị Bồ tát viết kinh hẳn viết ra những lời trên từ cảnh giới đó, qua hình
tượng Đức Quan Thế Âm.
Thuở tôi còn nhỏ, cứ vào ngày rằm hằng tháng, Má tôi luôn lên một
ngôi chùa địa phương để tụng kinh. Và Má tôi thường dẫn tôi theo. Trong các buổi
tụng kinh đó thường có đọc phẩm Phổ Môn. Hình tượng Đức Quan Thế Âm đó hiện ra
trong tâm hồn trẻ thơ của tôi như một Đấng Toàn Năng. Giống như vẻ đẹp hùng vỹ
trong nghệ thuật. Về sau, đọc thêm đôi chút kinh sách, tuy hiểu rằng Đức Phật
Quan Âm, cũng như nhiều vị Bồ tát khác, đều không có tồn tại trong lịch sử theo
cách hiểu của thế tục, nhưng các vị vẫn hiện hữu trong thế giới tâm linh, và
huyền lực từ những trang kinh Phật đối với tôi vẫn không thay đổi. Đó là điều kỳ
diệu mà bản thân tôi luôn cảm nhận được, nhất là trong giai đoạn dịch những tác
phẩm liên quan đến Phật học. Và tôi cảm nhận được rằng cái thế giới bị chia cắt
bởi không gian và thời gian, mà cho là thế giới thực này, chưa chắc là SẮC, mà
cái thế giới tâm linh kia chưa hẳn là KHÔNG.
Không chỉ các học giả, thậm chí vẫn
có không ít những tu sĩ Phật giáo, vì muốn cổ xúy cho giáo lý của tông phái
mình, đã tìm mọi cách để chứng minh và khẳng định rằng Đức Phật Quan Âm là một
nhân vật hoang đường, không có thực trong lịch sử, để từ đó khẳng định rằng tín
ngưỡng Quan Âm hoàn toàn không có giá trị về phương diện tôn giáo. Những người
đó, dù được tiếp xúc với kinh điển Phật giáo, nhưng hầu như chỉ tin vào sử liệu
thành văn và những gì mà lý tính cảm nhận được. Đối với họ, dường như chỉ có những
gì lý tính hiểu được và chứng minh được bằng sử liệu mới là thực hữu. Điều đó
hoàn toàn đúng trong sinh hoạt đời thường của tục đế. Nhưng thử hỏi lý tính của
con người là gì trước cõi thời gian không gian vô tận vô biên? Những ai chưa hiểu
được giới hạn của lý tính và chưa từng cảm nhận được sự mênh mông thâm diệu của
thế giới tâm linh, hãy cùng thử lắng nghe Đại sư Suzuky trả lời những người cực
đoan cho rằng Đức Phật Di Đà chỉ là nhân vật hoang đường, không có thực trong lịch
sử.
Nghiên
cứu A Di Đà, nhiều người ghép Ngài vào dòng sử; trên quan điểm sử học, họ coi sự
tích Phật A Di Đà như hoàn toàn hoang đường, không đáng chú ý, hơn thế nữa
không có một giá trị tôn giáo nào. Với những học giả ấy, người Phật giáo có thể
hỏi: Thế nào là sử ? Thế nào là nhân vật sử ? Tại sao cái thế giới chia cắt bằng
thời gian này của giác quan lại thật hơn, đáng tin hơn thế giới của tâm siêu việt
ngoài giới hạn của không- thời ? Thế giới tâm linh phải chăng chỉ do tâm ảo
giác tạo ra, chẳng đáng tin chút nào ? Thử hỏi, năm 1946 có thật hơn năm zêrô
không, hoặc năm vô phương kể, chẳng hạn như “ a-tăng-kỳ- kiếp ? ”. ( Suzuky, Cốt tủy của đạo Phật, Trúc Thiên dịch,
NXB. Hồng Đức, 2015, tr.98-99 )
Sự tồn tại của
Đức Quan Thế Âm cũng thế. Sự tồn tại của Ngài là sự tồn tại trong thế giới tâm
linh phi thời gian. Những tín đồ tin vào sự linh ứng của Đức Phật Quan Thế Âm vẫn
luôn xem Ngài có thật và sống thật, và luôn tồn tại trong dòng lịch sử thế tục
cũng như trong thế giới tâm linh siêu việt tục trí. Ngài vĩnh viễn là Đấng Hằng
Hữu Toàn Nhiên Thị Hiện để lắng nghe tiếng kêu thương của vô lượng chúng sanh.
Trên thực tế, từ niềm tin vào sự linh ứng, những tín đồ còn đón nhận được nguồn
sinh lực và sự an lạc từ Ngài, vì thế giới tâm linh đó mở rộng tâm thức để con
người thăng hoa với những cảm nhận thâm viễn và khát vọng siêu nhiên, khiến cuộc
sống bớt nhọc nhằn và tăng thêm ý vị. Những tâm hồn khổ đau sẽ tìm được bình an
trong giọt nước Cam Lồ, những nỗi khổ nhục trong đời sẽ được xoa dịu bởi một
nhành dương mềm mại. Đó là vẻ đẹp nhân văn. Nhưng nếu con người đem thói mê tín để bôi bẩn cái thế giới đó bằng
những trò cầu xin tài lộc, hoặc đem cái tục trí thô thiển của mình để phá hủy
cái thế giới tâm linh đó thì vẻ đẹp nhân văn sẽ bị hủy diệt, đạo đức sẽ suy đồi,
và cuộc sống xã hội sẽ có thêm bi kịch .
( Trích : NSGN- số 277- 04-2019- Tác giả : Huỳnh Ngọc Chiến )
0 nhận xét:
Đăng nhận xét