LÀM THẾ NÀO ĐỂ THỂ HIỆN LÒNG HIẾU KÍNH ĐỐI VỚI ÔNG
BÀ TỔ TIÊN MỘT CÁCH CÓ Ý NGHĨA
Chữ “ Hiếu”
hay còn gọi “ Đạo hiếu” là một truyền thống tốt đẹp lâu đời của dân tộc Việt
Nam. Hiếu đạo không những nằm ở tư tưởng Nho giáo mà nó có ở bất cứ nền văn hóa
nào của các quốc gia đều có, nhưng sự thể hiện đạo hiếu có sự khác nhau.
Vì vậy, từ xưa đến nay, người Việt có nhiều cách thể
hiện lòng hiếu kính của mình : Từ việc vâng lời, chăm nom, săn sóc, cấp dưỡng v.v..ông bà, cha mẹ khi còn sống
cho đến sau khi qua đời việc thờ cúng các vị quá vãng.
Trong thời đại
ngày nay, khi cuộc sống vật chất con người ngày càng đầy đủ, việc thể hiện lòng
hiếu kính đối với người quá vãng đôi khi quá mức cần thiết, và ở góc độ nào đó
là không mang lại lợi ích : Nào là sắm những món hàng mả như xe hơi, nhà lầu và
nhiều loại trang sức để đốt cho ông bà, tổ tiên sử dụng. Việc đua nhau xây lăng
mộ sang trọng để thể hiện lòng hiếu kính, và việc giết gia súc, gia cầm để cúng
tế, sau đó là chè chén linh đình.
Nhà nghiên cứu
Phan Kế Bính bàn về phong tục người Việt có nhận xét rằng : “ … nhiều người khi
cha mẹ còn sống thì bạc đãi, hất hũi chẳng coi ra gì, đến khi lúc chết lại cúng
tế linh đình. Kẻ có của đã vậy, kẻ không có cũng cố đi vay mượn cầm nhà, bán ruộng,
để trả nợ miệng, và lấy thể diện với đời, thực là một sự quá vô ích ”.
Qua bài viết
này, xem xét rộng hơn cách thể hiện lòng hiếu của người còn sống với người đã
khuất dưới nhãn quan đạo phật để mọi người đều có thể thực hiện được một cách có ý nghĩa và mang lại
lợi lạc nhiều hơn.
Thật ra, việc cúng tế người thân quá vãng đã
được Đức Phật chỉ dạy cách đây hơn 2500 năm. Trong Kinh Sanh Văn, có một vị Bà
la môn vì thương người thân của mình đã qua đời nên với tín tâm tổ chức cúng tế.
Vì ông không biết chắc người thân quá cố của mình có thọ nhận được hay không,
nên bèn đến gặp Đức Phật để thưa hỏi. Đức Phật trả lời ông rằng : “ Không nhất
định phải được. Nếu người thân tộc của ông sinh vào trong địa ngục, họ sẽ ăn thức
ăn của chúng sanh địa ngục để nuôi sống sinh mạng, chứ không nhận được đồ ăn thức
uống mà ông bố thí với tín tâm. Nếu họ sinh vào, súc sinh, ngạ quỷ, hoặc loài
người, họ sẽ được đồ ăn thức uống của loài người, không nhận được đồ bố thí của
ông ”.
Đức Phật cũng
nói với vị Bà la môn thêm rằng : “ Trong đường ngạ quỷ có một nơi tên là Nhập xứ
ngạ quỷ, nếu người thân tộc của ông sinh vào trong Nhập xứ ngạ quỷ kia, thì sẽ nhận được thức ăn
của ông ”. Vị Bà la môn bạch với Đức Phật rằng: “ Nếu người thân tộc của con
không sinh vào trong đường Nhập xứ ngạ quỷ, thì thức ăn do tín tâm của con bố
thí ai sẽ hưởng được ? ”. Đức Phật bảo vị Bà la môn : “ Nếu ông với tín tâm bố thí
cho người thân tộc, nhưng họ không sinh vào chốn Nhập xứ ngạ quỷ, thì có những
thân tộc quen biết khác đã sinh vào trong chốn Nhập xứ ngạ quỷ sẽ được hưởng ”.
Vị Bà la môn lại bạch Đức Phật : “ Thưa
Cù Đàm, nếu con do tín tâm bố thí cho người thân tộc, nhưng họ không sinh vào
chốn Nhập xứ ngạ quỷ và cũng không có các thân tộc quen biết khác sinh vào chốn
Nhập xứ ngạ quỷ, thì thức ăn do tín tâm bố thí đó ai sẽ hưởng ?. Đức Phật trả lời
: “ Giả sử ông vì những thân tộcquen biết mà bố thí, nhưng họ không sinh vào chốn
Nhập xứ ngạ quỷ, và lại cũng không có những người quen biết khác sinh vào chốn
Nhập xứ ngạ quỷ, thì việc bố thí do tín tâm, tự mình sẽ được phước ”.
Từ việc giảng
giải của Đức Phật nêu trên, có vài điều chúng ta cần phải suy ngẫm. Trước tiên,
người cúng tế không nên chỉ biết đến ông bà, tổ tiên của mình ngay trong kiếp
này trong Kinh Lăng già, khi Bồ tát Đại Huệ thưa hỏi Đức Phật về vấn đề không
ăn thịt chúng sanh. Đức Phật đã giảng như sau : “…tất cả chúng sanh từ trước đến
nay nhân duyên lần lượt thường làm lục thân, vì tưởng người thân nên không ăn
thịt ”. Như vậy, trong vô lượng kiếp
tái sinh con người cũng có vô lượng những thân tộc quen biết nên liệu chăng nếu
có cúng tế, chúng ta cần phát tâm rộng rãi cúng thí cho tất cả chúng sanh, không
nên giới hạn chỉ cho ông bà tổ tiên của mình trong kiếp này. Khi chúng ta làm
như thế cũng đồng nghĩa với việc tâm từ của mình mở rộng ra và thế việc cúng
kính có thể được xem là một pháp tu cho người còn đang hiện tiền.
Mặt khác, việc
cúng tế chưa hẳn là có một chúng sanh nào thọ nhận như lời Đức Phật đã thuyết
giảng cho vị Bà la môn kia, nhưng không khéo có thể gây nên tai họa cho người
còn sống. Nếu người còn sống sát sinh hại vật làm lễ vật cúng tế thì ắt chuốc lấy
nghiệp báo. Trong Kinh số 1 Phẩm Bất thiện, Đức Phật có thuyết giảng rằng :
“ Nếu
ai sát sinh hoặc quảng bá cho hành vi sát sanh thì sẽ bị đọa vào địa ngục, ngạ
quỷ hoặc súc sanh, nếu sinh trong cảnh giới người thì thọ mệnh rất ngắn ”.
Hơn thế nữa,
biết đâu trong những con vật bị giết đó có người thân quyến thuộc nhiều đời nhiều
kiếp của chúng ta thì sao. Vua Trần Thái Tông, một ông vua tu Phật và ngộ lý
thiền, đã có lời cảnh tỉnh con người từ bỏ nghiệp sát sanh với lý do như sau :
“ Phàm các loài sanh từ trứng, thai, ấm,
hóa, tánh vẫn đồng, thấy nghe hiểu biết đâu khác. Chỉ do tạo nghiệp kết oán,
nên thọ tên khác, hiệu khác. Ngày trước vốn loài người, nay sanh đàn giống khác
nhau. Hoặc là bạn bè, hoặc là anh em. Thay đổi áo xiêm đai mũ, biến làm mai vảy
cánh lông. Vợ quên chồng, chồng quên vợ, con trái cha, cha trái con. Đã thấy đối
đầu khác mặt, lôi về mổ bụng chặt chân…”Nếu con người giết con vật từng là
người thân của mình trong kiếp quá khứ để cúng tế thì hiếu đạo ở chỗ nào ?. Vì
vậy, lễ vật cúng tế nếu có nên chăng chỉ đơn giản bao gồm những món thanh tịnh
như hoa, quả và các loại thực phẩm không chế biền từ thịt động vật.
Các đoạn
trích từ kinh điển cũng như lời nhắc nhở của người xưa cũng cho chúng ta một
cái nhìn rộng hơn về cách thể hiện lòng hiếu kính đối với ông bà, tổ tiên. Đó
chính là cần phải thay đổi cách đối nhân xử thế trong cuộc sống hằng ngày. Phàm
tình chúng ta thường chỉ đối xử tốt với người thân và bạn bè của chúng ta hiện
tiền ngay trong đời sống hiện tại. Đối với những người khác, chúng ta thường
xem chỉ là người dưng nước lã. Biết đâu trong số những người chúng ta đang oán
thù, đang tìm cách ám hại, hay là những người đang gặp nạn mà chúng ta làm ngơ
lại chính là ông bà, tổ tiên của chúng ta trong những kiếp quá khứ. Bên cạnh
đó, mở rộng ra việc ứng xử hòa hợp với muôn loài cũng là cần thiết. Qua cuộc
trao đổi giữa Đức Phật và vị Bà la môn có tên là Lộc Đầu trong kinh số 4, Phẩm
Thanh văn ( Tăng Nhất A Hàm ) cho thấy có bậc tu hành chứng quả A La hán mới
thoát khỏi sanh tử luân hồi. Thế thì việc ông bà, tổ tiên của chúng ta trôi lăn
sáu nẻo ( Trời, người, a tu la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh ) là hoàn toàn có
khả năng xảy ra rất lớn. Vậy đối xử tốt với tất cả mọi người, mọi loài mà chúng
ta có nhân duyên gặp trong đời này cũng là cách thể hiện hiếu đạo đối với tiền
nhân của mình.
Tóm lại, cách thể hiện lòng hiếu kính đối
với ông bà, tổ tiên cũng là cách thể hiện lòng biết ơn của con người. Việc con
cháu thờ cúng là chính đáng, nhưng nếu chỉ dừng lại ở việc cúng kính thì không
thấy hết giá trị thực sự của nó. Dưới cái nhìn của đạo Phật, lòng hiếu kính được
thể hiện một cách rất sâu sắc và ý nghĩa. Trong phạm vi hạn hẹp của bài này với
các đoạn trích dẫn trong kinh điển Phật giáo với lời giáo huấn người xưa cũng
chưa nói hết lên được ý nghĩa của nó. Nhưng hy vọng đây sẽ là một sự gợi ý mởđề,
để chúng ta có cái nhìn rộng hơn về việc cách thể hiện lòng hiếu kính của mình
đối với những bậc tiền nhân nhằm đem lại lợi ích cho cá nhân, gia đình và xã hội.
( Trích : Làm thế nào để thể hiện lòng hiếu
kính, đối với ông bà tổ tiên một cách có ý nghĩa VHPG số
384- 1-3-2022: Lê Tấn Lộc )
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét