CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI ĐÃ KHUẤT THEO TINH THẦN PHẬT
GIÁO NGUYÊN THỦY.
Sanh-lão-bệnh-tử là quá trình
không ai có thể tránh khỏi. Với niềm tin từ kinh sách, truyền thống, tín ngưỡng,
tôn giáo, khi có người chết, thân quyến lại tổ chức cúng tế, cầu nguyện với
mong mỏi anh linh người chết sẽ được thanh thản, nhẹ nhàng, hưởng sự sung túc ở
thế giới bên kia. Ngày nay Phật giáo có nhiều pháp hội cầu siêu được tổ chức với
các nghi thức thiêng liêng. Tam thời hệ niệm, phá cửa ngục, chẩn tế, trai tăng,
đoạn nghiệp v.v.. Ở đây, chúng ta suy ngẫm thêm là việc cầu nguyện đó trong Phật
giáo có ý nghĩa như thế nào và liệu người chết có nhờ vào việc cúng tế, cầu
nguyện ấy mà có được cuộc sống an nhàn, tốt đẹp ở thế giới bên kia như niềm tin
của thí chủ ? Việc tìm hiểu về cầu nguyện
cho người đã khuất được Đức Phật nói trong các kinh tạng A Hàm và Kinh tạng
Nikaya sẽ giải thích vấn đề trên.
Quan niệm về sự chết : Có hay không sự tồn tại của một
linh hồn sau khi con người chết ? Đây là một trong những vấn đề siêu hình mà
các trường phái triết học, tôn giáo có quan điểm khác nhau. Theo quan điểm Phật
giáo, chết là một tiến trình tự nhiên trong quy luật sinh-lão-bệnh-tử của đời
người mà bất kỳ ai cũng phải trải qua: “ Cái
chết là sự chấm dứt của đời sống tâm-vật-lý của cá nhân. Chết là sự diệt tắt của
sinh lực, tức là đời sống tâm linh và vật lý, cùng với hơi nóng và thức. Chết
không phải là sự tiêu diệt hoàn toàn của một chúng sanh, mặc dầu kiếp sống chấm
dứt. Cái tiềm lực làm sống chúng sanh không bị tiêu diệt…Cũng thế ấy, sự tan rã
của thể xác không làm xáo trộn luồng nghiệp lực, và sự chấm dứt của thức hiện tại
dẫn đến sự phát sanh của công thức mới ”.
Điều đó có nghĩa sau khi kết thúc mạng sống ở đời hiện tại, từ bỏ thân
thể vật lý này thì sẽ bắt đầu sự sống mới ở một hình thức tồn tại khác, tùy
theo thiện nghiệp hay ác nghiệp lúc sanh tiền mà chiêu cảm một kiếp sống mới hoặc
tốt đẹp hơn hoặc tồi tệ hơn. Nó là một quá trình chuyển tiếp từ đời sống này
sang một đời sống khác. Chết không phải sự chấm dứt hoàn toàn mà là thay đổi
thân thể vật chất, quá trình chuyển đổi ấy gọi là tái sanh. Vì đâu chúng ta tin
vào điều đó ?
Trong Tăng Chi Bộ, Đức Phật dạy “ Với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy
sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ
cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh
nghiệp của họ…Những người này, sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên cói
thiện, cõi trời, cõi đời này”. Hay ở đoạn khác trong Trung bộ kinh “ Này Sariputta có năm loại thú này. Thế nào
là năm ? Địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, loài người và chư thiên ”.
Trong quá khứ, thời Phật còn tại
thế, đã không ít lần các ngoại đạo đã tìm đến hỏi Ngài về sự tồn tại sau khi chết,
nhưng Đức Phật luôn tỏ thái độ trầm mặc, không trả lời vì theo Ngài nó hoàn
toàn không có lợi ích, không thể làm nền tảng cho đời sống phạm hạnh, không đưa
đến sự chấm dứt khổ đau, sinh tử, luân hồi. Đức Phật đã lấy ví dụ chỉ cho những
người mãi lo tìm kiếm về điều này như người bị mũi tên độc bắn trúng, không lo
chạy chữa để cứu mạng sống mà nằng nặc tìm hiểu về nguồn gốc mũi tên do ai bắn,
tại sao lại bắn, mũi tên làm bằng chất liệu gì, người bắn cao hay thấp, da đen
hay da trắng …kết quả là khi chưa tìm ra hết các câu trả lời thì đã chết . Đức
Phật chưa bao giờ trả lời trực tiếp vấn đề “ còn hay không sự tồn tại của linh
hồn sau khi con người chết ”. Với sự thắng trí của Đức Phật, Ngài đã giảng về
cái chết rất rõ ràng về cái chết và những sự kiện sau đó, nhưng điều đó không đồng
nghĩa là có sự tồn tại của một linh hồn vĩnh hằng.
Theo Phật giáo, sau khi chết chỉ
trừ các vị A La Hán đã chấm dứt đoạn tận hoàn toàn các nguyên nhân tái sanh,
không trở lại nữa. Còn tất cả chúng sanh đều phải luân hồi trong năm cảnh giới:
Địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, loài người và chư thiên do chiêu cảm nghiệp báo từ
hành nghiệp thiện, ác của mình khi còn sống. Chúng ta có thể hoàn toàn tin chắc
có một cuộc sống mới cho con người sau khi chết và chúng ta có quyền quyết định
cuộc sống ấy, tự mình chọn lựa hoặc khổ đau, hoặc hạnh phúc cho mình bằng việc
gieo hạt giống thiện hay bất thiện ngay trong đời sống hiện tại. Đạo Phật đã chỉ
ra con đường nào đưa đến hạnh phúc, con đường nào dẫn đến khổ đau, còn việc lựa
chọn đi con đường nào là do bước chân mỗi người tự mình đặt để.
Nghiệp không thể cầu
nguyện hay van xin
:
Quan điểm của Phật giáo Nguyên Thủy
cho rằng, con người sau khi chết sẽ tùy nghiệp lực mà tái sanh, sự chuyển tiếp
từ kiếp sống hiện tại sang kiếp lai sanh
xảy ra một cách nhanh chóng “ Hiện
tượng chết và tái sanh diễn ra tức khắc, dầu ở nơi nào, cũng như làn sóng điện
phát ra trong không gian được thâu nhận tức khắc vào bộ máy thâu thanh. Luồng
nghiệp lực trực tiếp chuyển từ cái chết ngay đến tái sanh, không trải qua một trạng
thái chuyển tiếp nào”.
Phật giáo Nguyên Thủy chú trọng đến
hành nghiệp lúc còn hiện hữu trên đời. Đây chính là chú trọng đến nguyên nhân
đưa đến tái sanh vào các cảnh giới sau khi chết diễn ra, một khi có nhân chủng
tốt ắt sẽ đưa đến một nghiệp quả tốt. Thời Phật tại thế, khi gặp một người đang
hấp hối, Phật hoặc đệ tử Phật sẽ nói về sự vô thường, vô ngã, khuyên người ấy
an trú vào hơi thở, buông bỏ sự chấp thủ nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức, để họ
chấp nhận cái chết đến một cách nhẹ nhàng như trường hợp của vua Tịnh Phạn hay
cư sĩ Cấp Cô Độc. Trường hợp có người đã mất, các vị Tăng sĩ đọc những câu kinh
về vô thường để thức tỉnh người thân đang còn sống nhằm giúp họ vơi bớt nỗi đau
mất mát người thân. Chúng ta không tìm thấy trong hệ thống kinh tạng Nguyên thủy
bài kinh nào Đức Phật nói về sự cúng tế, cầu nguyện với lời hứa hẹn đem đến cho
người chết một tương lai tốt đẹp ở một cảnh giới an lành nào. Bởi mỗi người tùy
theo nghiệp nhân đã tạo mà chiêu cảm nghiệp quả khác nhau, không ai có thể can
thiệp được.
Trong Trung A Hàm, kể lại câu chuyện
Già-Di-Ni, con trời A tu la đến thưa Phật về việc các Bà la Môn bảo đảm nếu có
chúng sanh nào mạng chung, họ có thể làm cho tự do qua lại các thiện xứ, sanh
lên cõi trời và bày tỏ lòng mong muốn Thế Tôn cũng hãy bảo đảm làm cho chúng
sanh khi mạng chung đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời như các Bà la môn ấy. Đức
Phật đã trả lời vị ấy bằng câu hỏi : “ Nếu
ở trong thôn ấp, hoặc có kẻ nam, người nữ nào biếng nhác, không tinh tấn lại
hành ác pháp, thành tựu mười loại nghiệp đạo bất thiện, là sát sanh, lấy của
không cho, tà dâm, nói dối, cho đến tà kiến. Người ấy khi mạng chung, nếu có số
đông người đến, thảy đều chấp tay hướng về người đó kêu gọi, van lơn…Có thể nào
vì được số đông người đều đến chấp tay hướng về chúng mà kêu gọi, van lơn, nhân
việc ấy duyên việc ấy mà lúc thân hoại mạng chung lại được đi đến thiện xứ,
sanh lên cõi trời không… tảng đá lớn nặng ấy có thể nào vì được số đông người đến
đều chấp tay hướng về nó mà kêu gọi van lơn, nhân việc đó, duyên việc đó mà nổi
lên không ?”.
Vị Già-di-ni đã gián tiếp trả lời
câu hỏi của mình bằng việc trả lời câu hỏi của Thế Tôn về cầu nguyện nơi ví dụ
mà Phật đã đưa ra. Cũng như vị ấy, chúng ta chắc chắn đã tìm thấy câu trả lời về
vấn đề cầu nguyện cho người chết ở đoạn kinh này. Chính những hành động tạo tác
nơi thân, khẩu, ý của một người khi còn sanh tiền mà lúc chết họ sẽ bị dòng
nghiệp lực chi phối, dẫn dắt tái sanh trong các cảnh giới tương ứng. Việc đảm bảo
một cuộc sống tốt đẹp cho người chết ở thiện xứ, thiên giới thông qua việc cầu
nguyện, cúng tế là một điều không thể xảy ra nếu người này khi còn sống tạo các
ác nghiệp như sát sanh, lấy của không cho, tà dâm, nói dối tà kiến …Vậy sự hứa
hẹn của các Bà la Môn hay của bất kỳ một giáo phái nào, đấng thần linh nào về
việc này đó là một sự phi lý, việc làm ấy cũng giống như cầu nguyện cho một tảng
đá nổi lên mặt nước. Đây là điều không thể vậy.
Trong
Tương Ưng Bộ, Đức Phật cũng đề cập đến vấn đề này qua câu chuyện của vị thôn
trưởng đến bạch phật: “ Các vị Bà La Môn trú đất phương Tây, mang theo bình nước,
đeo vòng hoa huệ, nhờ nước được thanh tịnh. Những người thờ lửa, khi một người
đã chết, đã mệnh chung, họ nhắc bổng và mang vị ấy ra ngoài, kêu tên vị ấy lên,
và dẫn vị ấy vào Thiên giới … bạch Thế Tôn, là bậc A la hán, Chánh Đẳng Giác,
Thế Tôn có thể làm như thế nào cho toàn thế giới, sau khi thân hoại mạng chung,
được sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này?.
Lời thưa của vị thôn trưởng này lại
một lần nữa cho chúng ta thấy vấn đề về cái chết, sự giải thoát sau khi chết là
tư tưởng chủ đạo và quan tâm của hầu hết các trường phái triết học, tôn giáo
lúc bấy giờ. Dường như tất cả các giáo thuyết ngoại đạo thời bấy giờ đều chứa đựng
sự cam kết sẽ mang đến một cuộc sống hạnh phúc cho các tín đồ của họ. Riêng đạo
Phật, Thế Tôn không thừa nhận quyền “ ban phước, giáng họa”. Ngài đưa ra hai ví
dụ để vị trưởng thôn trưởng nhìn nhận vấn đề mình nghi vấn: “… có người lấy một tảng đá lớn ném xuống một
hồ nước sâu. Rồi một quần chúng đông đảo, tụ tập, tụ họp lại, cầu khẩn, tán
dương, chấp tay đi cùng khắp và nói rằng: “ Hãy đứng lên, tảng đá lớn ! Hãy nổi
lên, tảng đá lớn ! Hãy trôi vào bờ, này tảng đá lớn ! ”… Có người nhận chìm một
ghè sữa đông, hay một ghè dầu vào trong một hồ nước sâu rồi đập bể ghè ấy… rồi
một quần chúng đông đảo, tụ tập, tu họp lại, cầu khẩn, tán dương, chấp tay đi
cùng khắp và nói : “ Hãy chìm xuống,
này sữa đông và dầu ! Hãy chìm sâu xuống, này sữa đông và dầu. Hãy chìm xuống tận
đáy, này sữa đông và dầu ..”
Ở đây, Đức Phật đã xác định rõ, việc
sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục hay sanh lên thiện thú, thiên giới là
tùy thuộc vào hành nghiệp của một người lúc còn sống. Nếu người ấy làm các việc
thiện lành, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ sống tà hạnh trong
các dục, không có tham, không có sân, theo chánh tri kiến thì chắc chắn khi lìa
đời sẽ được sanh vào cảnh giới tốt đẹp. Dù ai có muốn cầu nguyện cho họ sanh vào
cõi dữ cũng không thể, giống như cầu cho bơ chìm xuống đáy nước vậy. “ Vì rằng đây là một ác nghiệp của Ngươi,
không phải do mẹ làm, không phải do cha làm, không phải do anh làm, không phải
do chị làm, không phải do bạn và thân hữu làm, không phải do bà con huyết thống
làm, không phải do Sa-môn, Bà-la-môn làm, không phải do chư Thiên làm. Ác nghiệp
ấy chính do ngươi làm, chính ngươi phải cảm thọ quả báo việc làm ấy ”.
Như vậy vấn đề nghiệp lực thì
không thể cầu nguyện hay van xin, mỗi người phải chịu trách nhiệm về các nghiệp
nhân mà mình đã tạo tác, nếu thiện nghiệp sẽ đưa đến quả báo tốt đẹp, ác nghiệp
sẽ dẫn đến quả báo xấu trong đời này và đời sau, không ai có thể thay thế hay
chuyển được nghiệp quả của mình ngoài bản thân mình.
Nguồn gốc lễ cúng cầu
siêu
Các nghi thức cúng tế, cầu siêu có
thể bắt nguồn từ thời nhà Đường ở Trung Quốc, theo lão pháp sư Đạo An : “ Nguồn gốc của việc siêu độ bắt nguồn từ thời
đại Đường Minh Hoàng. Thời Đức Phật không có, Phật giáo truyền đến Trung Quốc
thời kỳ đầu cũng không ghi chép sự việc này. Đến thời đại của Đường Minh Hoàng,
vì vua Đường sủng ái Dương Quý Phi, khiến nhân dân triều thần bất mãn, mới có
loạn An Lạc Sơn nổi tiếng trong lịch sử suýt nguy cấp đến cả quốc gia dân tộc.
Với sự đắc lực của Quách Tử Nghi, một vị đại tướng đương thời đã bình định cuộc
nổi loạn, tuy nhiên quân dân tử thương rất nhiều. Sau khi bình định cuộc nổi loạn,
triều đình tại mỗi chiến trường chính, xây dựng một miếu thờ gọi là Khai Nguyên
tự, vì đúng vào niên hiệu Khai Nguyên, thỉnh cao tăng đại đức, tụng kinh, bái
sám truy điệu cho quân dân tử nạn. Đây là lễ truy điệu do triều đình cử hành, gọi
là pháp hội siêu độ. Từ đó dân chúng học theo, mỗi khi có người qua đời, người
dân cũng thỉnh pháp sư đến làm Phật sự siêu độ, tạo phong tục cho đến ngày
nay”.
“
Không phải nhất định. Nếu người thân tộc của ông sanh vào trong địa ngục, nó sẽ
ăn thức ăn của chúng sanh địa ngục để nuôi sống sanh mạng của nó, chứ không nhận
được đồ ăn thức uống mà ông bố thí với tín tâm. Nếu nó sanh vào súc sanh, ngạ
quỷ hoặc loài người, họ sẽ được đồ ăn thức uống
của loài người, không nhận được đồ bố thí của ông. “ Này Bà La Môn, con
đường ngạ quỷ có một nơi tên là Nhập xứ ngạ quỷ. Nếu người thân tộc của ông
sanh vào trong Nhập xứ ngạ quỷ kia, thì sẽ nhận được thức ăn của ông.
Theo đoạn kinh trên, con người sau
khi chết nếu đã sanh vào các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người và trời
thì sẽ thọ nhận đồ ăn tương xứng với nơi họ đang sống. Họ hoàn toàn không được
lợi ích từ việc cúng tế, cầu nguyện. Hay nói một cách khác, đó là họ đã tồn tại
trong hình thức của kiếp sống mới với những điều kiện mới về mọi phương diện
tương ứng với nghiệp nhân đã tạo trong đời. Chỉ khi người chết bị sanh vào cõi
Nhập xứ ngạ quỷ thì mới có thể hưởng phần nào lợi ích từ sự bố thí, hướng tâm của
người thân. Tuy nhiên, những việc làm này chỉ mang tính xúc tác, tạo tăng thượng
duyên, hỗ trợ ít nhiều vào tiến trình nhân quả, cảm thọ nghiệp báo của người chết
một cách tích cực chứ hoàn toàn không thể cứu thoát họ ra khỏi cảnh giới ngạ quỷ
hay thay đổi nghiệp quả mà họ đang phải chịu. Vì nhân quả, nghiệp báo đó là một
quy luật tất yếu, công bằng và khách quan. Nghiệp do ai gây ra thì người ấy phải
gánh chịu hậu quả của nghiệp ấy, không có bất kỳ một năng lực nào có thể thay đổi
được nhân quả, cũng không ai có thể thay thế, dù có chung dòng huyết thống: “ Cha không cứu được con/ Hay bà con cứu nhau
”.
Phần lợi ích từ các việc này chủ yếu
vẫn là cho những người còn sống. Kinh phân tích : “ Người ấy bố thí cho Sa môn hay Bà la Môn, các món ăn, đồ uống, vải mặc,
xe cộ, vòng hoa, hương phấn sáp, các giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Vị ấy sau
khi thân hoại mạng chung, bị sanh cộng trú với các loài voi…Vị ấy tại đấy, được
các món ăn, các đồ uống, vòng hoa, các đồ trang sức khác… Vị ấy sau khi thân hoại
mạng chung, được sanh cộng trú với loài Người. Tại đấy, vị ấy được năm loại dục
công đức sai khác, thuộc về loài người…Người ấy sau khi thân hoại mạng chung,
được sanh cộng trú với chư Thiên. Vị ấy tại đấy được năm loại dục công đức của
chư Thiên.
Vậy
nhờ lòng thương tưởng đến người đã khuất, với lòng tịnh tín mà phát tâm cúng dường,
bố thí, hành thiện, sẽ tự mình được phước từ những việc làm ấy. Phước báo ấy
chính là tư lương trên chặng đường tái sanh cho mỗi người khi chấm dứt thọ mạng
nơi cõi đời này.
Vấn
đề cầu nguyện cho người chết. Đức Phật
dạy : “ Ta là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp, nghiệp là thai tạng,
nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào đã tạo, thiện hay
ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy ”.
Nghiệp là yếu tố quyết định cho cảnh
giới tái sanh của con người sau khi chết, không có một hình thức cầu nguyện hay
bài kinh nào, không có đấng thượng đế hay một quyền lực nào chi phối được nghiệp
lực của mỗi người. Do đó, để được siêu
thoát, nói khác hơn là để có một cuộc sống tốt đẹp ở kiếp lai sanh, mỗi người
phải tự chuẩn bị tư lương cho mình ngay khi còn khỏe mạnh, để khi vô thường đến,
cái chết diễn ra, chúng ta sẽ biết rõ đường đi lối về của mình mà không chờ đợi
một sự cứu rỗi, cầu nguyện nào bởi chắc chắn đó là điều không thể.
Thực tại đáng lưu tâm, là đó đây
còn có một số tu sĩ trẻ xu hướng nghiêng về cúng tế nhiều hơn, với những sự hứa
hẹn, đảm bảo mang đến một cuộc sống an lành nơi thế giới Tây phương Cực lạc cho
người đã mất. Chính điều đó đã vô tình làm hiểu lầm tính phương tiện của việc
thực hiện các nghi thức cầu nguyện trong Phật giáo, biến giáo lý Phật từ “ ngón
tay chỉ mặt trăng” trở thành một giáo thuyết linh thiêng có quyền ban phước
giáng họa cho muôn loài. Trước đây, Phật giáo chú trọng đến việc giáo hóa những
người sống, dạy cho họ biết làm lành lánh dữ, tạo nhân duyên tốt, chuẩn bị cuộc
sống tốt đẹp cho kiếp lai sanh. Thời đại
ngày nay, yếu tố phương tiện trong việc thực hiện các nghi thức cầu nguyện tho
người chết đôi lúc bị xao lãng, dẫn đến sự tồn tại của quan điểm mê tín dị
đoan. Việc cúng tế, cầu nguyện cho người chết là một cách thể hiện lòng biết
ơn, sự thương nhớ của người còn sống đối với người đã khuất, thể hiện nét đẹp đạo
đức văn hóa “ uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam. Thực hiện các pháp sự
chẩn tế, bạt độ kỳ siêu cho người chết là một hình thức tiếp biến với truyền thống
văn hóa đất nước, thể hiện tinh thần nhân văn và tinh thần nhập thế của Phật
giáo trong thời đại mới.
Tuy nhiên, trên tinh thần phương
tiện độ sanh cũng không thể để mất đi tính nguyên chất của Đạo Phật. Thông qua
các hình thức siêu độ, phải làm sao truyền tải được cho mọi người sự hiểu biết
về cái chết, quy luật duyên sanh, vô thường, sự chi phối và tác động của nhân
quả nghiệp báo vào tiến trình tái sanh… nhằm trang bị cho người đang sống một
hành trang vững vàng để có thể đối diện với cái chết, không lo âu, không sợ
hãi, vì ai rồi cũng phải chết. Hạnh phúc hay khổ đau là do chính bản thân mình
chọn lấy, không có một hình thức cầu nguyện nào, không ai có thể thay thế cho
ai để chịu nghiệp báo. Từ đó hướng con người đến một đời sống thiện lành, trọn
vẹn ngay nơi đời sống hiện tại này để tạo nhân chủng tốt cho kiếp tái sanh.
( VHPG- 1-1- 2022- Cầu nguyện cho người đã khuất theo tinh thần
Phật giáo Nguyên Thủy - SC Thích nữ Huệ
Quang )
0 nhận xét:
Đăng nhận xét