TƯ TƯỞNG BÌNH ĐẲNG CỦA ĐỨC PHẬT
Đức
Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của
Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho nhân loại suốt hơn hai mươi lăm thế
kỷ nay. Sau khi giác ngộ, Ngài đã thực hiện một cuộc cách mạng vỹ đại làm thay
đổi nhiều quan niệm sai lầm cố hữu tồn tại trong hàng ngàn năm tại Ấn Độ, giải
phóng những khổ đau cho tầng lớp hạ tiện bị khinh rẻ và áp bức lúc bấy giờ.
Trong vô số giáo lý mà Ngài đã thuyết giảng, tư tưởng bình đẳng là một trong những
giáo lý nhiệm mầu giúp phá tan định kiến xã hội nhìn giá trị con người phát xuất
từ chủng tính.
Trong
xã hội Ấn Độ thời ấy chia làm bốn giai cấp rõ ràng là Giai cấp Bà- la- môn, giai cấp Sát -đế- lợi,
giai cấp Phệ- xá và giai cấp Thủ- đà- la. Họ chủ trương rằng : Bà -la -môn từ miệng Phạm thiên sinh ra. “
Bà la môn chí thượng, ” được hình thành.
Sát- đế- lợi từ vai Phạm thiên
sinh ra; Phệ -xá từ rốn Phạm thiên sinh ra và Thủ -đà -la từ chân Phạm thiên
sanh ra.
1/ Bà-la-môn: Là tầng lớp cao nhất
trong xã hội, có nhiệm vụ cố vấn cho quốc vương và lo việc cầu nguyện, tế tự. Họ
lợi dụng thế lực tôn giáo để kiểm soát và điều hành thế giới tinh thần con người.
2/ Sát- đế-lợi : Bao gồm vương tộc,
hoàng thân, thủ lĩnh và dũng sĩ các nước nhỏ. Quyền thống trị của một quốc gia
do đẳng cấp Sát-đế-lợi nắm giữ. Nhưng trong kinh Phật thì phần nhiều cho Sát-đế-lợi
nằm ở địa vị thứ nhất, tức trên đẳng cấp Bà-la-môn.
3/ Phệ- xá : Bao gồm thợ thủ công,
thương nhân, nông dân, người chăn nuôi…chủng tính này phải nộp thuế cho tầng lớp
vua chúa, quý tộc. Tuyệt đại bộ phận trong số họ là những người bị bóc lột và bị
áp bức.
4/ Thủ -đà-la : Bao gồm những người
tiện dân và nô lệ, là thành phần thấp bé chịu nhiều thiệt thòi nhất trong xã hội.
Mỗi
chủng tính hoạt động độc lập, theo chế độ nội hôn, là tập thể người cùng chung
họ hàng, nghề nghiệp truyền đời nhau. Ai sinh trong chủng tính nào thì được hưởng
thân phận của chủng tính ấy như là yếu tố mặc khải của kinh Vệ-đà.
Giai
cấp đứng đầu bốn chủng tính Ấn Độ lúc bấy giờ là Bà-la-môn. Bà- la-môn có nghĩa
là thanh tịnh, thuần khiết hoặc thần thánh. Đây là giai cấp không những nắm quyền
lực về tôn giáo mà còn là giai cấp có đặc quyền cố vấn cho quốc vương trong xã
hội. Trên thực tế, người nắm quyền binh chính trị và quân sự là giai cấp Sát-đế-lợi.
Đối với nền chính trị lúc này, một mặt, Sát-đế-lợi bắt buộc dân chúng cấp dưới
thi hành chính sách của mình đặt ra; nhưng mặt khác, Sát-đế-lợi phải tuân hành
giáo quyền của giai cấp Bà-la-môn áp đặt. Cho nên Sát-đế-lợi là giai cấp trung
gian nằm giữa Bà-la-môn và tầng lớp thợ thuyền, buôn bán, công nghệ, nông dân.
Thái tử Tất-đạt-đa sinh ra trong chủng tính này. Trong khi tầng lớp vương tộc
phát động chiến tranh thì thành viên trong giai cấp tế tự Bà-la-môn không thể
không thực thi công tác thực dân. Lúc bấy giờ, nông nghiệp và chăn nuôi quả là
cần thiết, tầng lớp thương nhân buôn bán cũng không thể thiếu trong xã hội chủng
tính Ấn Độ. Họ thuộc tầng lớp lao động bình dân, gọi là Phệ-xá. Chủng tính này
vừa tuân theo mệnh lệnh tôn giáo của Bà –la-môn vừa bị chi phối bởi nền chính
trị Sát-đế-lợi.
Theo
Áo nghĩa thư thì chủng tính Thủ-đà-la
bị ba chủng tính trên cô lập. Ba chủng tính đầu có quyền tụng kinh Vệ-đà và quyền
tự do tế tự. Đến một lứa tuổi nào đó thích hợp, họ có thể xuất gia làm Sa môn để
thực hiện đời sống tôn giáo; còn chủng tính Thủ-đà-la không có quyền như vậy, họ
chỉ được đọc thơ tự sự trong văn học dân gian và tục ngữ để được chút niềm vui
thay cho tôn giáo của họ mà thôi. Thậm chí họ không được ngước nhìn vào mặt những
Bà-la-môn, vì như vậy Bà-la-môn sẽ bị ô uế.
Chứng
kiến bao cảnh bất công tồn tại cố hữu trong xã hội Ấn Độ do chế độ chủng tính
mang lại và những mâu thuẫn từ các quốc gia láng giềng xâm chiếm, đánh phá
nhau, Thái tử Tất-đạt-đa kiên quyết tìm cho mình một hướng đi giải thoát thực sự.
Sau khi thành đạo, Đức Phật phá bỏ ranh giới phân biệt đẳng cấp xã hội và làm
cuộc đại cách mạng tư tưởng để xóa tan sự bất công cố hữu ấy. Ngài dùng tình
thương để đối xử tử tế với tầng lớp nô lệ vốn bị ba đẳng cấp trên miệt thị.
Đức
Phật luôn kiên trì lập trường của mình khi xem tất cả chúng sanh đều bình đẳng. Ngài thu nạp những người có tâm nguyện tu tập
giải thoát từ tất cả các tầng lớp xã hội, mà không từ chối bất cứ đẳng cấp nào,
dù là thương nhân, ngoại đạo, nô lệ hay quý tộc, Bà-la-môn, quốc vương. Trong
Tăng đoàn do Đức Phật thiết lập, Ngài hoàn toàn không dựa theo chức nghiệp,
thành phần xuất thân hoặc địa vị xã hội của họ để đặt ra bất kỳ đặt quyền hay sự
hạn chế nào. Ngài xóa bỏ tất cả những gì có liên quan đến nghi lễ hoặc pháp lệnh
chuyên chế phân biệt đẳng cấp xã hội. Chính nhờ tinh thần bình đẳng không phân
biệt này mà Đức Phật được đa số quần chúng cung kính, đặc biệt là giai cấp hạ đẳng,
như phụ nữ, người nghèo khổ, người nô lệ bị áp bức, chà đạp. Họ xem Đức Phật
như là vị “ Cứu thế” vĩ đại của nhân loại, giải phóng mọi bất công và đem lại tự
do cho con người.
Ở
mọi lúc mọi nơi, Đức Phật đều lấy nhân cách cao thượng của một bậc thầy giác ngộ
làm sự nghiệp giáo hóa. Nhân cách cao thượng ấy được thể hiện ở việc tôn trọng
tính thiện lương của con người mà bác bỏ tư tưởng ưu liệt về nhân chủng. Theo
cái nhìn bình đẳng của Đức Phật, nếu những người nô lệ được giáo dục đàng
hoàng, biết tu dưỡng đạo đức thì họ có khả năng trở thành những con người vĩ đại,
đáng cung kính. Ngược lại, những kẻ tự cho mình là người cao quý được sinh ra
trong giai cấp vương tộc hay Bà-la-môn, nếu không được giáo dục chu đáo, không
biết trau dồi đức hạnh thì suốt đời cũng chỉ là những kẻ ngu si, vô trí, cống
cao, ngã mạn mà thôi. Khi đánh giá phẩm hạnh một con người, cần phải nhìn nhận
về trí tuệ và đạo đức của họ chứ không thể xét họ thuộc vào thành phần chủng tộc
nào do xã hội quy định. Phàm là người thì ai cũng có thể tự xây dựng cho mình một
đời sống chân chính để trở thành người có trí tuệ và đạo đức.
Việc
xây dựng giáo đoàn bằng tinh thần từ bi và bình đẳng đã công khai phản bác chế
độ đẳng cấp theo định kiến của xã hội Ấn Độ thời bấy giờ. Đức Phật tượng trưng
bằng hình ảnh rất sống động khi lấy nước trong năm sông và nước trong biển lớn
để thí dụ. Trăm sông khi đổ vào biển cả đều mang một vị, đó là vị mặn. Cũng vậy,
dù cho bất kỳ ai ở vào bốn chủng tính của xã hội, nếu xuất gia tu hành chân
chính thì cũng đều thấm nhuần một vị, đó là vị giải thoát. Không phải Đức Phật
đưa ra vấn đề này để lý luận suông mà chính Ngài đã triệt ngộ và thực hành thuần
thục tinh thần bình đẳng trong cuộc sống hằng ngày đối với các Tỳ kheo.
Đức
Phật luôn nghĩ đến chúng sanh có duyên lành được độ. Ai có duyên trước Ngài độ
trước, ai có duyên sau Ngài độ sau. Chẳng hạn, Ni đề vốn là một người nghèo khổ,
thuộc giai cấp không thể tiếp xúc, hàng ngày sinh hoạt bằng nghề gánh phân
thuê, nhưng Đức Phật vẫn tiếp nhận và cho gia nhập giáo đoàn. Ban đầu, do tâm
lý tự ti mặc cảm nên Ni đề không dám gặp mặt Đức Phật, vì nghĩ rằng Đức Phật là
dòng dõi hoàng tộc, các đệ tử Ngài là quý nhân, còn ông là kẻ hạ tiện, hèn hạ.
Nhưng tấm lòng từ bi, Đức Phật thu nhận ông vào giáo đoàn xuất gia tu học. Sau
một thời gian ngắn tinh tấn tu tập, Ni đề đã chứng đắc thần thông.
Bấy
giờ, rất nhiều người thuộc chủng tộc Bà-la-môn hoặc vua chúa phản đối những người
hạ tiện được xuất gia làm Sa-môn, nhưng Đức Phật vẫn kiên định lập trường bình
đẳng của mình. Ngài luôn dùng thí dụ dễ hiểu để ví cho lập trường này “ Pháp
của ta thanh tịnh mầu nhiệm, cũng như nước sạch có thể tẩy trừ được tất cả cấu
uế, cũng như ngọn lửa lớn có thể thiêu cháy mọi vật dù vật lớn hay vật nhỏ, tốt
hay xấu đều có thể cháy thành tro. Pháp của ta cũng vậy, rộng lớn vô biên, dù
là người giàu hay nghèo, sang hay hèn, nam hay nữ, nếu ai có khả năng tu tập
thì đều dứt sạch hết các ham muốn”.
Ưu-ba-li
vốn là một thợ hớt tóc trong cung đình thuộc chủng tộc Thủ-đà-la. Sau khi xuất
gia, ông tinh thông giới luật, là một vị trì luật đệ nhất trong mười đệ tử lớn
của Đức Phật. Ưu-ba-li cũng là người trùng tuyên Luật tạng trong lần thứ nhất kết
tập kinh điển.
Cô
gái Bát-cát-đế thuộc dân hạ tiện Ma-đăng-già tự nhận mình là hạng người không
thể tiếp xúc, nên không dám dâng nước cúng dường A Nan. A-nan mang giáo lý bình
đẳng của Đức Thế Tôn ra thuyết giảng thì cô ta mới dám hiến cúng. Cuối cùng,
Bát-cát-đế cũng xuất gia làm Tỳ kheo ni, chứng đắc quả vị A-la-hán.
Sở
dĩ Đức Phật phủ nhận hoàn toàn phẩm giá hạ tiện của giai cấp nô lệ đã được định
hình trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ, là vì Ngài lấy nhân cách làm trung tâm để
xây dựng nên quan điểm bình đẳng nhất giữa chúng sanh và Phật, như trong kinh
Hoa Nghiêm dạy: “ Tâm, Phật và chúng
sanh, ba thứ không sai biệt”. Có thể nói, quan điểm này không có trong tư
tưởng xã hội Ấn Độ trước đây. Đức Phật đưa ra quan điểm bình đẳng để thức tỉnh
tính tự giác của mỗi người, vì ai cũng có khả năng trau dồi trí tuệ và đạo đức.
Người nào chưa có tự do tín ngưỡng tôn giáo, người nào chưa có tự do học hành
thì giờ đây có quyền học hành như bao người ở giai cấp khác. Đây là chủ nghĩa
nhân văn, chủ nghĩa bình đẳng trong giáo lý của Đức Phật. Tinh thần này được Đức
Thế Tôn vận dụng trong đời sống hòa hợp của giáo đoàn. Từ những thành tựu an lạc,
hòa hợp, giải thoát của Tăng đoàn do Đức Phật hướng dẫn, mọi giai tầng xã hội
đã nhìn thấy những giá trị con người mà lâu nay chế độ chủng tính đã phớt lờ hoặc
phủ nhận.
Tinh
thần bình đẳng của Đức Phật đã vượt lên trên các định chế của xã hội để mang lại
hạnh phúc, tự do cho mọi người, dù họ sinh ra trong giai cấp bình dân hay quý tộc.
Tất cả con người sinh ra trên cõi đời này đều mang dòng máu đỏ và nước mắt cùng
mặn nên không thể nói giai cấp này cao hơn giai cấp kia, hay chủng tánh kia thấp
hơn chủng tánh nọ từ nơi xuất phát. Tất cả mọi người đều bình đẳng về quả báo của
các hành nghiệp thiện hoặc ác, bình đẳng về quyền lợi được thụ hưởng tất cả những
giá trị phổ quát của con người. Sở dĩ có sự phân chia giai cấp quý tiện trong
xã hội Ấn Độ lúc ấy là do tầng lớp Bà-la-môn tự cho mình có đặc quyền sinh sát
trong tay, bắt buộc những người khác phải phục tùng vô điều kiện.
Thuyết
bình đẳng của Đức Phật đã phản bác những bất công của xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ
và còn mang giá trị nhân văn cho đến hôm nay. Con người thông minh hay ngu độn,
cao quý hay thấp hèn là do hạnh nghiệp của họ chứ không phải do nơi chủng tính
của họ sinh ra, như Đức Phật trả lời người Bà-la-môn thờ lửa Bà-la-đọa-xà trong
kinh Tiện dân : “ Chẳng phải nơi sinh ra
là tiện dân, cũng chẳng phải nơi sinh ra là Bà-la-môn, bởi do hành vi mà con
người trở thành tiện dân, và cũng do hành vi mà con người trở thành Bà-la-môn
”.
( Trích :Tư tưởng bình đẳng của Đức Phật –
Thích Hoằng Trí – NSGN số 290- 5/2020 )
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét