THIỆN TÀI ĐỒNG TỬ VỚI CON ĐƯỜNG VÃNG SANH TỊNH ĐỘ TRONG KINH HOA
NGHIÊM
… Dù là thế giới Ta bà hay thế giới Cực lạc,
hay thế giới nào đi nữa cũng đều hình thành do hai yếu tố chính đó là nguyện lực
của chư Phật và nghiệp lực của chúng sanh. Trong Kinh Hoa Nghiêm có rất nhiều
phẩm kinh trình bày về tư tưởng Tịnh độ và pháp môn niệm Phật. Nhưng phẩm kinh
đề cập nhiều và nổi tiếng nhất mà bất kỳ hành giả Đại thừa nào cũng từng nghe
qua phẩm Nhập Pháp giới với hình ảnh Thiện Tài có tinh thần cầu thầy học đạo,
không mỏi mệt với 53 bậc thiện tri thức.
Hình
ảnh Thiện Tài cầu thầy học đạo đã truyền cảm hứng cho bao thế hệ người con Phật.
Chính lý tưởng cao đẹp và tinh thần nhiệt thành cầu đạo ấy đã trở thành ngọn lửa
thiêng liêng bất diệt soi sáng cho con đường học đạo của chúng ta. Tinh thần cầu
đạo không mỏi mệt của Thiện Tài đã chạm đến trái tim của các bậc Thánh. Vì vậy,
đi đến đâu, Thiện Tài cũng luôn được các bậc thiện tri thức hết lòng hướng dẫn
và khen ngợi. Có thể thấy mục tiêu lý tưởng của Thiện Tài là thành tựu trí tuệ
giác ngộ, chứng đắc vô thượng Bồ đề và kiến tạo một Phật quốc lý tưởng. Để đạt được mục tiêu trên, Thiện tài bắt buộc
phải trải qua quá trình học và tu vô cùng nghiêm túc. Trong đó, chí nguyện cầu
sanh Tịnh độ cũng là một phần không thể thiếu để đạt đến trí tuệ viên mãn. Lý
tưởng cầu sanh Tịnh độ của Thiện Tài thể hiện rõ trong phẩm Nhập Pháp giới, Khi
Thiện Tài đến tham học với các bậc thiện tri thức. Đặc biệt là khi Thiện Tài đến
tham học với Tỳ kheo Đức Vân và được chỉ rõ về Pháp môn niệm Phật. Đây là pháp
môn căn bản để sanh về Tịnh độ nói chung và Tịnh độ Tây phương của Phật A Di Đà nói riêng. Thế nhưng, để
sanh về Tịnh độ phải có phương pháp. Con đường ấy đòi hỏi phải
đi qua bốn giai đoạn : Gieo trồng thiện căn, Phát khởi Bồ đề tâm, thân cận thiện tri thức và thực hành pháp niệm
Phật.
1- Gieo trồng thiện căn : Trong Kinh Hoa Nghiêm nói “ Nếu không gieo trồng thiện căn thì chẳng có
thể phát tâm Bồ đề… ” Thiện căn là cội rễ sanh ra các pháp lành, ba
đời chư Phật, vô lượng Thánh Hiền cũng đều từ đây mà xuất sanh, đều từ đây mà
thành tựu. Chúng sanh trong cõi Ta bà, phần nhiều làm việc sai trái, khiến cho
thiện căn phước đức suy giảm, do đó chìm đắm trong bể khổ sanh tử luân hồi khó
mong thoát khỏi tai ương. Còn người thường xuyên gieo trồng căn lành, sẽ gặp được
quả phước đức, do đó thường gặp những thắng duyên trong cuộc đời. Chúng sanh
trong cõi Ta bà chẳng chịu gieo trồng căn lành, còn gặp phải những khó khăn như
thế, huống là việc cầu sanh về Tịnh độ lại càng khó hơn muôn lần.
Như vậy, gieo trồng căn lành chính là giai đoạn
phát khởi thiết yếu của bất kỳ hành giả nào, dù tu tập bất kỳ pháp môn nào. Bởi
thiện căn là cội rễ sinh ra các pháp lành và pháp lành là cội rễ của phước đức.
Người có đầy đủ nhân duyên phước đức sẽ được chư Phật hộ niệm, được thiện tri
thức giúp đỡ, nhờ đó có thể thành tựu Thánh hạnh. Người mà đoạn các thiện căn
công đức thì khó mà thành tựu được nhơn hạnh huống gì là thành tựu Thánh hạnh.
Do đó, muốn sanh về Tịnh độ, trước phải gieo trồng căn lành, vun bồi công đức để
làm tư lương trên lộ trình giải thoát.
2-
Phát Bồ đề tâm : Bồ đề tâm tiếng Phạn là “ Bodhi Citta ” gọi đủ là A nậu
đa la tam miệu tam Bồ đề tâm, cũng gọi là Vô thượng đạo tâm, Vô thượng đạo ý,
Vô thượng tâm, Đạo tâm, Đạo ý, Đạo niệm,
Giác ý. Tức là tâm cầu Bồ đề Vô thượng (
cầu thành Phật )… Người cầu sanh Tịnh độ cũng phát tâm Bồ đề. Tâm Bồ đề là tâm giác ngộ, tâm Phật. Người
phát khởi tâm Bồ đề là người đang phát khởi nguyện vọng thành tựu quả Phật.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, đồng tử Thiện Tài được Tỳ kheo Hải Vân hướng dẫn cách
phát tâm Bồ đề : “ Phát Bồ đề tâm là phát
tâm đại bi vì cứu khắp tất cả chúng sanh. Là phát tâm đại từ, vì khắp giúp tất
cả thế gian. Là phát tâm an lạc vì làm cho tất cả chúng sanh diệt tất cả khổ.
Phát tâm lợi ích, vì làm cho tất cả chúng sanh lìa ác pháp. Phát tâm ai mẫn, vì
có ai kinh sợ gì đều giữ gìn. Phát tâm vô ngại vì rời bỏ tất cả chướng ngại.
Phát tâm quảng đại, vì tất cả pháp giới đều đầy khắp. Phát tâm vô biên, vì khắp
cõi hư không đều qua đến. Phát tâm rộng rãi vì đều thấy tất cả Như Lai. Phát
tâm thanh tịnh, vì trí không trái với pháp tam thế. Phát tâm trí tuệ, vì vào khắp
biển Nhứt thiết trí huệ ”.
Nếu
gieo trồng căn lành là cội rễ của phước đức thì tâm Bồ đề được ví như đại địa
có thể nâng đỡ, bảo bọc các giống lành. Các hạt giống lành phải gieo trồng trên
đất tâm mới có thể phát triển tươi tốt. Nếu các hạt giống lành không được gieo
trồng trên mãnh đất tâm ấy sẽ lụi tàn, khô héo. Cho nên, kinh nói quên mất tâm
Bồ đề mà thực hành các thiện pháp, đều là ma nghiệp. Người nào phát khởi tâm Bồ
đề sẽ được chư Phật nhiếp trì, thiện tri thức tán thán và chư Thiên ngày đêm ủng
hộ. Vì vậy, khi Thiện Tài đến chỗ các bậc thiện tri thức. Đồng tử này luôn
trình bày việc phát khởi Bồ đề tâm của mình và được các vị thiện tri thức hết
lòng tán thán, ra sức giúp đỡ. Do thế, việc phát khởi tâm Bồ đề là điều kiện tối
quan trọng, không thể thiếu để hành giả tiến sâu vào hơn trên đạo lộ tu tập tâm
linh của mình. Ví như người muốn xây
nhà, trước phải phát khởi ý niệm chọn đất để xây nhà thì mới có thể tiến hành
việc xây dựng căn nhà. Cũng vậy, người muốn kiến tạo một Phật quốc lý tưởng, một
Tịnh độ thù thắng thì phải phát khởi tâm Bồ đề, có như vậy mới có thể thành tựu
được trí nghiệp vãng sanh : “ Này thiện
nam tử ! Nếu có ai phát được tâm Vô thượng Bồ đề thì là chẳng dứt mất tất cả Phật
chủng. Thì là nghiêm tịnh tất cả Phật độ. Thì là thành thục tất cả chúng sanh ”
3-
Thân cận thiện tri thức : Từ cổ chí kim, tình bằng hữu luôn là mối quan
hệ cao đẹp và vô cùng thiêng liêng. Có những người sống cả đời chỉ mong cầu tìm
được một tri kỷ, một người bạn khắc cốt tâm giao. Rất ít trong chúng ta có thể
tìm ra một người bạn đúng nghĩa, một người có thể sát cánh trong tất cả những
vui buồn cuộc đời. Cho nên người xưa mới thốt lên rằng quen biết khắp thiên hạ,
tri kỷ được mấy người. Tình bạn theo quan điểm của Phật giáo không dừng lại ở
chỗ hiểu được tâm ý ta, có thể cùng ta đi qua những vui buồn của nhân tình thế
thái, mà phải tiến đến chỗ cùng nhau giải thoát khỏi những buồn vui của nhân
tình thế thái. Chúng ta kết bạn không phải để gặp và kể nhau chuyện đời, những
vinh nhục, ai oán, mà để học hỏi, nâng đỡ và trị liệu tận gốc những phiền não
trong tâm.
Trong Quy Sơn Cảnh Sách, tổ Quy Sơn có dạy :
“ Sanh
ra ta là do cha mẹ, làm nên ta là bằng hữu. Gần gũi người lành như đi trong
sương móc, tuy không ướt áo mà dần dần thấm nhuần. Gần gũi kẻ ác, thêm ác tri
kiến, sớm tối làm ác, trước mắt chịu quả bảo, chết rồi phải trầm luân, một khi mất thân người, muôn kiếp khó tìm lại được.”.
Quả thật việc kết giao bằng hữu là việc rất đáng tôn quý, nhưng ở chọn nơi,
chơi chọn bạn. Nhất là với những người đang trên lộ trình học đạo giải thoát,
việc lựa chọn bằng hữu để cùng tu tập là việc vô cùng quan trọng. Người bạn đạo
trong Phật giáo gọi là thiện tri thức.
Thân cận với các bậc thiện tri thức là một trong những thắng duyên của đời sống
tu hành. Thiện tri thức là người bạn pháp, người mẹ hiền, người cha lành, người thầy trí tuệ có thể
giúp đỡ, hướng dẫn ta đi đúng hướng,
tránh khỏi những sa đọa, những cám dỗ của cuộc đời. “ Này
thiện nam tử ! Thiện tri thức như từ mẫu, vì xuất sanh Phật chủng. Như từ phụ, vì lợi
ích rộng lớn. Như nhũ mẫu, vì thủ hộ chẳng cho làm ác. Như giáo sư, vì dạy sở học
của Bồ tát. Như Đạo sư, vì hay chỉ đường
Ba la mật. Như lương y, vì hay chữa bệnh phiền não ”.
Người nào mong muốn thành tựu được các Thánh hạnh thì phải mong cầu thiện
tri thức, tôn thờ thiện tri thức : “ Này
thiện nam tử ! Nếu muốn thành tựu Nhất thiết chủng trí thì phải quyết định cầu
thiện tri thức. Này thiện nam tử, cầu thiện tri thức chớ có mỏi lười. Thấy thiện
tri thức chớ có nhàm đủ. Thiện tri thức có dạy bảo điều chi phải đều tùy thuận.
Nơi thiện xảo của thiện tri thức chớ có thấy lỗi lầm”. Đồng tử Thiện Tài trong Kinh Hoa Nghiêm theo
sự hướng dẫn của Bồ tát Văn Thù mà phát tâm lên đường tìm cầu học đạo với các bậc
thiện tri thức. Từ các vị Bồ tát, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà
di, đến các vị ngoại đạo Bà la môn, các
Tiên nhân, Thương nhân, phi nhân v.v.Thiện
Tài đều đến cầu đạo bằng tâm chí thành và bình đẳng. Nhờ lộ trình tham vấn nơi
53 vị thiện tri thức đại diện cho mọi tầng lớp xã hội này mà Thiện Tài đã tôi
luyện cho mình những phẩm hạnh cao quý của một người học Phật.
Đặc
biệt khi đến tham vấn với Tỳ kheo Đức Vân, Thiện Tài đã được chỉ dạy về pháp
môn niệm Phật. Từ đó,Thiện Tài có thể thấy được vô lượng chư Phật và vô lượng
cõi Tịnh độ trong khắp mười phương. Thiện Tài đã được chư Phật ở khắp cõi Tịnh
độ ấy nhiếp trì. Hộ niệm cho nên Thiện Tài đã mau chóng đạt được sức chánh niệm
quán sát và có thể đi vào “ Trí tuệ quang
minh môn, Bồ tát giải thoát môn, Bồ tát tam muội môn, Bồ tát đại hải môn, Chư
Phật hiện tiền môn, Chư Phật phương sở môn, Chư Phật quỹ tắc môn, Chư Phật đẳng
hư không giới môn, Chư Phật xuất hiện thứ đệ môn, Chư Phật sở nhập phương tiện
môn ”. Sở dĩ Thiện Tài đạt được những thành tựu như trên, trước hết đó là nhờ vào sự chỉ dạy của thiện
tri thức vậy.
4-
Thực hành pháp niệm Phật : Gieo
trồng thiện căn, phát tâm Bồ đề, thân cận
thiện tri thức đây là những nhân duyên. Còn niệm Phật mới là chánh nhân để được
sanh về cõi Phật. Do đó, muốn được vãng sanh về thế giới của chư Phật, đòi hỏi
hành giả phải thực hành pháp niệm Phật thì mới có thể vãng sanh về cõi Phật như
ý nguyện. Như một người muốn sanh về cõi Phật Dược Sư, vị ấy phải đêm ngày phát
tâm thọ trì danh hiệu của Ngài . Lấy việc trì niệm danh hiệu của Ngài làm chánh
nhân để được vãng sanh. Còn người muốn vãng sanh về cõi Phật A Di Đà, vị ấy phải
thọ trì danh hiệu Phật A Di Đà để được Ngài và Thánh chúng tiếp dẫn.. Theo Phật
Quang Đại Từ Điển giải thích “ Niệm Phật
: Trong tâm nhớ nghĩ về pháp thân của Phật, quán tưởng thân tướng cụ thể của Phật,
hoặc quán tưởng công đức của Phật, cho đến miệng xưng niệm danh hiệu của Phật…
đều gọi là niệm Phật… Trong các kinh A Hàm, niệm Phật tức là bày tỏ lòng quy
kính, lễ bái, tán thán, nhớ nghĩ đối với Phật Thích Ca Mâu Ni. Nhờ công đức niệm
Phật mà diệt trừ được tham sân si, được sanh lên cõi trời, được chứng nhập Niết
bàn … ”.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, khi Thiện Tài đến gặp Tỳ
kheo Đức Vân, Thiện Tài được chỉ dạy về pháp môn “ Ức niệm nhứt thiết cảnh giới
chư Phật trí huệ quang minh phổ kiến, tức nhớ nghĩ đến vô lượng cảnh giới của
chư Phật bằng tâm thanh tịnh, bình đẳng. Từ đó,
có thể rộng thấy được trí tuệ quang minh của vô lượng chư Phật và vô lượng
cõi Tịnh độ của chư Phật. Thiện Tài cũng đã được chỉ dạy cho các phương pháp niệm
Phật như : Môn niệm Phật chói sáng các
phương… Môn niệm Phật vào chỗ bất khả kiến… Môn niệm Phật an trụ trong các kiếp…
Môn niệm Phật an trụ trong tất cả thời gian… Phật an trụ tất cả cõi… Phật an trụ
tất cả đời… Phật an trụ tất cả cảnh… Phật an trụ tịch diệt… Phật an trụ viễn
ly… Phật an trụ quảng đại… Phật an trụ vi tế…
Đặc
biệt ở các phương pháp niệm Phật do Tỳ kheo Đức Vân chỉ dạy cho Thiện Tài là các phương pháp này đi thẳng vào lý tánh
niệm Phật. Đòi hỏi hành giả phải có một trình độ căn cơ nhạy bén, một trạng
thái tâm nhu nhuyến, lắng đọng. Có lẽ, các phương pháp này chỉ thích hợp cho bậc
thượng căn thượng trí như Thiện Tài, một người đã tích tập vô số phước lành
trong nhiều kiếp. Như vậy, không có nghĩa pháp môn Tịnh độ trong Kinh Hoa
Nghiêm hoàn toàn chỉ dành cho các bậc
thượng căn thượng trí. Pháp môn Tịnh độ trong Kinh Hoa Nghiêm vẫn phổ cập đến tất
cả chúng sanh, tất cả căn cơ. Bởi, Hoa Nghiêm đặt trên nền tảng của pháp giới
duyên sanh, tư tưởng tịnh độ của kinh Hoa Nghiêm cũng là tịnh tâm duyên sanh.
Tâm chúng sanh thanh tịnh thì Tịnh độ hiện tiền. Chỉ cần chúng sanh nhiếp niệm
thì vọng duyên sẽ đoạn tuyệt, thật tướng phô bày, ngay lúc đó uế độ cũng biến
thành Tịnh độ.
Ngoài ra, các Đại sư của
Hoa Nghiêm tông còn đưa ra các phương pháp niệm Phật như sau : “ Trong
Hoa Nghiêm kinh sớ quyển 56, ngài Trừng Quán nêu ra 5 loại niệm Phật pháp
môn a)
Duyên cảnh niệm Phật môn- b) Nhiếp cảnh duy tâm niệm Phật môn; c) Tâm cảnh
câu mẫn niệm Phật môn; d) Tâm cảnh vô ngại niệm Phật môn; e) Trùng trùng vô tận
niệm Phật môn. Trong Hoa Nghiêm kinh hành nguyện phẩm biệt hành sớ sao quyển 4
, ngài Tông Mật nêu ra 4 loại niệm Phật : a) Xưng danh niệm; b) Quán tượng niệm; c) Quán tưởng niệm; d) Thực
tướng niệm ”. Từ các phương pháp này, chúng ta có thể thấy pháp môn niệm Phật
trong kinh Hoa Nghiêm là một pháp môn phổ cập quần chúng. Duy chỉ có điểm đặc
biệt là kinh Hoa Nghiêm đi sâu vào lý tánh niệm Phật và thiết lập Phật quốc lý
tưởng thông qua con đường cầu hành Bồ tát đạo.
Tóm lại, Tư tưởng Tịnh độ trong Kinh Hoa
Nghiêm đặt trên nền tảng của học thuyết Duyên khởi, do vậy pháp giới là nhất
chân, viên dung, diệu hữu. Người tu theo Hoa Nghiêm chủ trương dùng Bồ tát hạnh
để giáo hóa chúng sanh, trang nghiêm Phật độ. Thiện Tài đồng tử là biểu trưng
cho quá trình cầu học và thực hành Bồ tát đạo. Cuối cùng, sau khi trải qua vô số
các thiện tri thức, Thiện Tài đã kết thúc quá trình tham học của mình nơi Bồ
tát Phổ Hiền. Chính tại đây, Thiện tài đã được Bồ tát Phổ Hiền khuyến hóa cầu
sanh Tịnh độ để có thể mau chóng thành tựu trí tuệ giác ngộ.
Câu chuyện Thiện Tài đồng tử tham học nơi 53 vị
thiện tri thức, thực ra không chỉ là câu chuyện riêng của Thiện Tài, mà còn là
câu chuyện của tất cả những người học Phật. Chúng ta phải phát tâm dũng mãnh,
không mệt mỏi tìm cầu chân lý. Chân lý ấy cũng không phải ở đâu xa, mà chân lý ấy
ở ngay trong chính xung quanh cuộc sống của mỗi người. Chân lý ấy có thể ở nơi
một vị thầy khả kính, hằng ngày nghiêm trì giới luật bên trong tu viện và cũng
có thể nơi một cụ già bán hàng rong ngoài phố xá tấp nập kẻ qua người lại. Chân
lý là cái không hình không dạng, do vậy chân lý không thể đo lường mà cũng
không nhất định nằm ở bên trong hay bên ngoài một cá thể, một vật thể. Người học
Phật phải ý thức được điều này, họ sẽ biết cách làm sao để thấy được chân lý một
cách chính xác nhất. Một khi đã thấy được chân lý thì ngay khi ấy chân Tịnh độ
và chân thân của Phật A Di Đà sẽ hiện tiền.
Bởi lẽ như Phật hoàng Trần Nhân Tông đã viết :
“ Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ
còn ngờ hỏi đến Tây phương ? ”.
(
Trích VHPG 1-10- 2022 số 398- Đ Đ Thích Đồng Thuận . )
******
0 nhận xét:
Đăng nhận xét