Thứ Ba, 1 tháng 11, 2016

SÚC SANH

SÚC SANH


    Thân súc sanh là do nghiệp nhân ngu si mà chiêu cảm, trong đó chủng loại đã nhiều, chi phái cũng chẳng phải một. Đã nhận thân ô uế, sinh vào đường ác thì đã sớm mất tuệ minh, chỉ còn sân hận. Vì thế loài ong, bò cạp, thân mang nọc độc, rắn rết tính thường sân hận. Loài bồ câu, chim sẻ thì đa dâm, lang sói thì quá độc ác, hoặc mang lông đội sừng, ngậm ngọc nuốt châu hoặc mỏ lớn sắc nhọn móng vút bén dài, hoặc chở vật qua lại, bị người sai khiến, hoặc làm chó ban đêm siêng sủa, làm gà sáng sớm gáy vang. Hoặc là trâu khốn khổ cày ruộng, làm ngựa lao nhọc kéo xe, khiến cho thân thịt phải tiêu hao, da lông rơi rụng, hoặc có loài ẩn nấu trong đầm hang cỏ rậm lại bị lưới vây, hoặc loài nương nơi ao hồ cũng bị giăng lưới bủa câu. Tất cả các loài như thế chúng ta đều thay cho mà sám hối. Cho đến loài đại bàng thân lớn, loài trùng kiến bé hình hoặc loài chuột đồng uống nước sông, hồng tước làm tổ trên cành, hoặc các loài sống dưới nước hay trên đất liền, hoặc là chim là thú, hoặc là loài cá. Tất cả các loài như thế, chúng ta đều thay cho mà sám hối, khiến cho chúng tín căn thanh tịnh, lìa bỏ thân xấu ác này, được tuệ mạng trang nghiêm, khôi phục phúc báo cõi trời, không còn nổi khổ bức ép ruổi rong, vĩnh viễn lìa xa lòng bi hận, bị chém chặt, mặt tình tiêu dao, tuỳ tâm vui thú, uống ăn tự tại, đàm luận an nhiên, ra khỏi lồng chật hẹp, thoát được nạn lớn trói cùm.
    Giải thích danh từ súc sanh: Luận Bà sa ghi: “Súc sinh, Sinh là chúng sinh, súc tức là nuôi dưỡng, nghĩa là loài hoành hành kia bẩm tính ngu si, không thể tự lập, phải nhờ người nuôi dưỡng mới tồn tại, nên gọi là súc sinh.
    Hỏi:  Nếu do nuôi dưỡng mà gọi là súc sinh, vậy các loài sống dưới nước, bay trên không, trên đất liền đâu có được con người nuôi dưỡng mà vẫn gọi là súc sanh ?
    Đáp: Phạm vi nuôi dưỡng rất rộng, bao gồm cả nhân gian và 6 tầng trời cõi dục, còn phạm vi không nuôi dưỡng hẹp hơn, giới hạn trong các vùng đầm lầy, núi rừng hoang dã ở nhân gian. Nay chiếu theo số nhiều được nuôi dưỡng, nên gọi là súc sinh. Luận Lập Thế a tỳ đàm ghi: “Súc sanh tiếng Phạn là Để  túc xa, do tạo nhân siểm khúc nên chiêu cảm sanh vào đường này. .. Loài chúng sanh này khi đi thân úp xuống đất, nên gọi là Để túc xa.”
    Thân của loài này nằm ngang (bàng) song song với mặt đất, khi đi thân cũng nằm ngang, nên gọi là bàng sanh.   Có thuyết cho rằng, do các hữu tình tạo tác và làm tăng trưởng ác hạnh thân ngữ ý, ngu si, nên sinh vào loài này, hoặc cho rằng do ngu si vô trí, nên gọi là bàng sinh, loài này có khắp trong 5 đường.  Địa ngục, ngạ quỷ, trời, người và a tu la.  Súc sinh có rất nhiều nhưng có thể tổng gồm thành ba loại chính là cá, chim và thú. Trong đó cá gồm 6400 chủng loại, chim 4500 chủng loại, thú 2400 chủng loại.
     Trụ xứ của súc sanh: Súc sanh có hai trụ xứ là chính và biên. Chính là ở trong chỗ tối tăm giữa hai lớp núi thiết vi, hoặc trong biển lớn, trên các cồn bãi. Biên thì trụ trong năm đường.
     Thân tướng: Kinh Bồ tát Xử thai ghi: “Thứ nhất, không loài chim nào lớn bằng chim đại bàng cánh vàng, từ đầu đến đuôi cách nhau 8000 do tuần, cao cũng như thế. Chim này bay một mạch  từ núi tu di này đến núi tu di kia mà không cần dừng nghỉ. Thứ  hai, Không loài nào lớn bằng loài rồng. Theo kinh A Hàm, Long Vương Nan Đà và Bạt nan đà có thân hình rất lớn, có thể quấn quanh núi tu di 7 vòng, đầu vương lên đến đỉnh, đuôi cắm sâu xuống biển. Thứ ba, không loài nào lớn bằng cá ma kiệt, thân dài 300 hoặc 400 do tuần, cho đến con lớn nhất 700 do tuần.
  Thiên Tiêu Dao du trong Nam Hoa kinh của Trang Tử ghi: “ Có loài đại bàng thân hình cực lớn, lưng của nó không biết rộng dài bao nhiêu dặm, khi sắp bay, thì vỗ cánh dậy sóng 3000 dặm, cánh như vầng mây che bầu trời, xoáy gió mà vút lên cao 9000 dặm rồi mới bay xa. Nó bay từ biển bắc đến biển nam một mạch sáu tháng mà không dừng nghỉ.
    Nam Hoa kinh của Trang Tử lại ghi: “Chim nhỏ nhất không loài nào hơn chim Tiêu minh nó đẻ trứng trên đầu vòi con muỗi, khi trứng nở mà vẫn không rơi. (Loài này cũng chưa phải là nhỏ, kinh điển cho rằng, những chúng sinh thọ báo có thân nhỏ nhất, chỉ bằng hạt bụi, thiên nhãn mới nhìn thấy, cho nên trong kinh luật ghi “Đức Phật bảo các tỳ kheo lọc nước mới được uống. Xá Lợi Phất nghe lời Phật, lọc nhiều lần mà vẫn còn vi trùng. Do đó trải qua 7 ngày tôn giả không uống nước, khiến thân hình khô gầy. Phật nói: Nếu dùng thiên nhãn mà thấy thì nhân dân không ai có thể sống được. Từ nay về sau chỉ cho phép dùng nhục nhãn để kiểm tra nước trong sạch hay chưa ? Nếu không thấy có sinh vật thì cho phép uống.
     Thọ mạng và nghiệp nhân: Luận Tỳ đàm ghi: “Về thọ mạng của súc sanh, loài sống lâu nhất không vượt quá một kiếp, như Long Vương Trì Địa Long Vương Ưu bát la. Loài tuổi thọ ngắn nhất là phù du, sáng sinh tối diệt, không đến một ngày, còn nằm ở khoảng giữa dài và ngắn thì không thể thuật hết.
     Luận Trí Độ ghi: Đức Phật bảo Xá Lợi Phất quán đời quá khứ và vị lai của chim bồ câu. Xá Lợi Phất quán vế quá khứ 8 vạn kiếp, quán về vị lại cũng 8 vạn kiếp, nhưng thấy chúng sanh này chưa xả thân bồ câu.
    Cho nên biết, thọ mạng của chúng sanh cũng rất dài lâu, hàng phàm phu không thể tính biết được.
    Kinh Nghiệp Báo Sai biệt ghi: “Nếu tạo đủ mười nghiệp sau đây thì sau khi chết sẽ đoạ vào loài súc sanh, thân tạo ác, miệng nói lời ác, ý khởi niệm ác, từ phiền não tham mà tạo ác, từ phiền não si mà tạo nghiệp ác, mắng chửi chúng sanh, làm tổn hại chúng sanh, bố thí vật không thanh tịnh, tà dâm. ”.
     Kinh Chánh Niệm cho rằng: “Có rất nhiều loài súc sanh, nên cũng có rất nhiều nghiệp nhân và thọ báo khác nhau. Mười nghiệp ác, mỗi nghiệp đều có thể đưa chúng sanh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, về sau nếu được làm người, vẫn còn mang tập khí tàn dư. ”
     Kinh Hiền Ngu ghi: “Khi Phật còn tại thế an trú tại tịnh xá Kỳ viên. Bấy giờ Xá Lợi Phất, ngày đêm ba thời thường dùng thiên nhãn quán sát thế gian, Ngài thấy người nào đáng độ liền đến đó độ. Lúc ấy có các thương nhân đến nước khác buôn bán, họ đem theo một con chó. Lúc mọi người dừng nghỉ, nhân lúc mọi người không để ý, chó ăn vụng thịt của các thương nhân. Họ tức giận nên đánh đập và bẻ chân nó, bỏ nơi hoang vắng rồi tiếp tục lên đường. Tôn giả Xá Lợi Phất từ xa dùng thiên nhãn quan sát thấy con chó, chân nó bị bẻ quắp, nằm trên đất, đói khát bức bách sắp chết. Ngài ôm bát vào thành khất thực. Được thức ăn, Ngài liền bay đến, khởi lòng thương xót lấy thức ăn cho nó. Chó được thức ăn, mạng sống vẫn còn, vô cùng mừng rỡ. Xá Lợi Phất thuyết giảng diệu pháp cho nó nghe, chó liền mạng chung sinh vào nhà Bà la môn ở nước Xá vệ.
   Ngày kia một mình Xá Lợi Phất đi khất thực, Bà la môn gặp liền hỏi:
   Tôn giả đi khất thực một mình, không có sa di đi theo ư ?
   Xá Lợi Phất trả lời:  Tôi không có Sa di, nghe ông có đứa con trai, ông có thể cho tôi được không ?
   Tôi có một bé trai tên là Quân Đề, nó còn quá nhỏ chưa thể làm gì được, khi nó lớn tôi sẽ cho Ngài.
    Bảy năm sau, Ngài lại đến nhà Bà la môn xin đứa bé. Bà la môn đồng ý cho đứa bé được xuất gia. Xá Lợi Phất liền nhận, dẫn về Kỳ hoàn cho làm sa di, rồi dần dần nói pháp cho Quân Đề nghe. Quân Đề được khai ngộ, chứng A La Hán đầy đủ công đức. Sau khi Quân Đề đắc đạo, tự dùng trí lực, quán sát đời quá khứ mình đã tạo hạnh nghiệp gì mà được thụ thân này,được gặp thánh sư, chứng đạo quả. Quân Đề quán sát thân trước của mình là một con chó đói, nhờ gặp tôn giả Xá Lợi Phất, cho ăn và khai ngộ, nên nay được thân người và chứng quả. Thấy vậy, Quân Đề vui mừng nghỉ: “Ta nhờ ân thầy mà thoát được thống khổ, nay ta suốt đời hầu hạ ngài, sẽ làm sa di mãi, không thụ giới tỳ kheo.
  A Nan thưa: Bạch Đức Thế Tôn ! Không biết đời trước Quân Đề đã gây nghiệp ác gì mà đoạ làm thân chó, tạo công đức gì mà được giải thoát ? Đức Phật dạy: “ Này A Nan !  vào thời Đức Phật Ca Diếp ở quá khứ, các tỳ kheo cùng trụ chung một xứ. Trong đó có một  tỳ kheo trẻ tuổi có tiếng nói thanh nhã, giỏi tán tụng, ai cũng thích nghe. Có một tỳ kheo lớn tuổi đã chứng quả A La Hán, đầy đủ công đức, nhưng âm giọng khàn đặc, không thể xướng tụng, dù vậy vẫn thường ngồi một mình xướng tụng làm vui. Tỳ kheo trẻ tuổi thấy vậy, tự cậy mình có âm giọng hay nên gièm chê: Trưởng lão này giọng ngâm nga như chó sủa !
    Vị tỳ kheo lớn tuổi liền gọi đến hỏi:
-         Ông có biết ta là ai không ?
-         Tôi biết rõ ông là một vị tỳ kheo già.
-         Vị tỳ kheo già nói, nay ta đã chứng quả A La hán, đầy đủ các phép tắc sa môn.
   Vị tỳ kheo trẻ nghe vậy, vô cùng sợ hãi, toàn thân rúng động hoảng hốt tự trách, liền đến trước tỳ kheo già sám hối tội lỗi của mình. Tỳ kheo lớn tuổi nhận lời sám hối ấy. Nhưng vì lời nói ác kia mà trong 500 đời thường thọ thân chó, lại do xuất gia giữ giới thanh tịnh nên nay gặp ta mà được giải thoát. ”
       Luận Trí độ ghi: “Do quá ngu si, nên thọ thân các loài trùng, chim ngu xuẩn, như giun kiến, bọ cạp, cú mèo, chim sáo . . ..Bồ Tát long Thọ nói: “Vì tâm dâm sâu nặng, nên thọ thân le le, hoặc cho rằng do tâm si sâu nặng nên thọ thân le le. Vậy hai loài le le này giống hay khác ?
    Đáp: Từ phiền não dục sanh thì thuộc các loài chim sống nơi sông nước như vịt trời, le le. Nếu từ phiền não  si sanh thì thuộc các loài chim sống trên đất liền như chim cú, hoặc các loài ban ngày nhìn thấy ban đêm không thấy. Vì từ dục sanh nên luôn bay liền nhau, như các loài chim sống trên mặt nước, hoặc như các loài ban đêm thấy ban ngày không thấy, do từ si sanh nên luôn bay ban đêm rình tìm các loài chuột. Chim si có hai loại, nếu từ phiền não dục sinh thì làm lão si, tức diều hâu, ban ngày nhìn thấy mà ban đêm không nhìn thấy, nếu từ phiền não si sinh thì làm cú mèo, ban đêm nhìn thấy mà ban ngày không nhìn thấy.
    Khổ vui và ưa ghét:   Như kinh nói: loài rồng phúc đức thì y báo tốt đẹp, đầy đủ các món vui chơi, đầy đủ vợ con, thức ăn thức uống v.v.. không thiếu món gì, khổ vui tự tại hơn cả loài người. Lại có loài rồng phúc mỏng, ngày ngày bị cát nóng tấp vào thân, lại bị trùng nhỏ cắn rỉa, ăn thịt đau khổ vô cùng. Lại như các loài súc sanh ở nhân gian luôn bị con người xua đuổi, đánh đập, mang nhiều chở nặng rong ruổi đó đây, luôn bị sai khiến, không được tự do, cho đến các loài sống trên đất, dưới nước, trong hư không, thiếu thốn cỏ nước, tàn hại lẫn nhau, lại các loài súc sanh cư trú ở khoảng giữa hai núi thiết vi chịu cảnh tối tăm, triền miên thống khổ, không một sát na hưởng thọ niềm vui.
   Kinh lại nói , các loài rồng, kỳ lân, phượng hoàng, khổng tước, anh vũ, gà rừng, chim trĩ luôn được con người yêu quí, còn các loài khỉ vượn, sài lang, cọp, tê giác, rắn, bò cạp, quạ, cú mèo... thì luôn bị con người ghét bỏ, không thích nhìn thấy, không thích nghe tiếng, các loài được ưa hay bị ghét như thế rất nhiều, sang hèn cũng như vậy, không thể kể xiết.

---------—]–---------

SÚC SANH Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét