ĐỊA
NGỤC
Lời dẫn: Địa ngục tối tăm đau khổ, vô cùng bi thương, nào là rừng đao cao vút,
núi kiếm thấu trời, vạc sôi sùng sục, lò lửa hừng hực. Ban ngày tội nhân bị
nhốt trong thành sắt, ban đêm ôm cột đồng cháy đỏ. Người tội bị nhốt đầy kín
trong đó. Họ sợ hãi, khốn khổ, kêu gào thảm thương. Lại thêm ngục tốt đầu trâu
trừng mắt, nhe răng, chỉa ba đâm hông, tim gan bị giả nát, hoặc lửa dữ đốt
thân, da thịt cháy hết, hoặc giả đầu, đập chân, nấu phách, đun hồn, cắt mật,
rút ruột, mổ thân, bằm thịt. Những thống khổ như thế, sao nói hết được !
Có những người tội chìm nổi trong vạc sôi, vẫy vùng trong lò lửa, da thịt tiêu
hết dưới lưỡi dao, xương cốt nát vụn bên thi thể, đầu thể ngủ yên trên giường
sắt, dựa lâu giữa hai cột đồng, lại trong mắt bốc lửa, nên khóc mà lệ chẳng
rơi, miệng phải ngậm khói, nên thốt mà chẳng ra lời. Những nơi như thế còn cho
là nhẹ !
Đến như trong băng lạnh bổng gặp gió ấm, trong lửa nóng lại có hơi lạnh thì cảm
thấy khoái lạc, an vui. Hoặc thọ thân tại A tì mới là kinh khiếp, đó là phải
chịu thống khổ trong tường sắt, chu vi tám vạn do tuần, tiếng lửa dữ réo kinh
hồn, khói hôi thối bốc lên ngùn ngụt. Tội nhân như cá trong lò, mở máy cháy
khô, toàn là cảnh khổ, không có một phút giây an vui, lại còn bị trói chặt,
không hề cử động. Cứ như thế xoay chuyển khắp đông tây, trên dưới. Đến khi kiếp
hoại thì dời qua thế giới khác, cứ như thế mãi. Khi thế giới ấy kiếp tận thì
sinh về thế giới này, trải qua vô lượng kiếp.
Nay xin tu phúc, sám hối tội lỗi, nguyện vạc dầu sôi sùng sục biến
thành ao sen, lửa lò hừng hực hoá thành lọng thơm, rừng kiếm cao vút thành rừng
Quỳnh, núi đao rậm rạp biến thành núi Thứu chân như, trụ đồng đổi sắc hoá thành
cờ, lưới sắt biến hình mở ra cõi tịnh. Đồng thời quỷ sứ đầu trâu ném đao mà quy
y Tam bảo, ngục tốt mặt ngựa bỏ roi mà thụ nhận năm giới. Oan gia hoá giải, há
mãi mang sắc diện hận thù, trái chủ vui vẻ, nào còn nét sân khuể ! Tội nhân mất
đầu do đây mà được lại,thịt nát xương tan nhờ thế mà bình phục.
Giải thích danh từ địa ngục:
Hỏi: Địa ngục là gì ?
Đáp: Luận Lập Thế A tì Đàm ghi: “Địa ngục tiếng phạn là Nê lê da,
nghĩa là không an vui, không yên ổn, không an vui, không sung sướng, không
thoát khỏi, không có phúc đức. Do không dứt trừ nghiệp ác nên rơi vào đó ”
Lại nói: “Địa ngục là nơi thấp hèn nhất trong cõi Dục, nên gọi là phi đạo. Vì
vậy, nên gọi địa ngục là Nê lê da ”.
Luận Bà sa gọi địa ngục là không tự tại, nghĩa là người tội bị ngục tốt quản
thúc, không được tự do, cũng gọi là nơi không đáng ưa thích.
Lại nữa, địa (đất) là đáy, nơi thấp nhất trong muôn vật, ngục là bó buộc, nơi
không được tự tại, nên gọi là địa ngục.
Lại nữa, Nê lê là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Vô hữu, nghĩa là trong ngục
không có mảy may lợi ích.
Thọ quả báo: Luận Tân bà sa ghi: Hỏi địa ngục ở đâu?
Đáp: Phần lớn ở dưới lòng đất châu Nam Thiệm bộ.
Hỏi: Bố trí thế nào?
Đáp: Có thuyết cho rằng, từ châu Nam Thiệm bộ này thẳng xuống dưới bốn mươi
nghìn do tuần là đáy của địa ngục Vô gián.
Địa ngục Vô gián dài, cao, rộng đều 20 nghìn do tuần, phía trên địa ngục này 19
nghìn do tuần, có 7 địa ngục. Theo thứ tự từ dưới lên trên là địa ngục: Thiêu
nướng lớn, Địa ngục thiêu nướng, địa ngục kêu gào lớn, địa ngục kêu gào, địa
ngục chúng hợp, địa ngục Dây đen, địa ngục Đẳng hoạt. Bảy địa ngục này, mỗi
ngục dài rộng mười nghìn do tuần. Một nghìn do tuần còn lại, thì 500 do tuần là
đất sét trắng, 500 do tuần là đất bùn.
Có thuyết cho là dưới lớp đất bùn này có địa ngục vô gián nằm ở giữa, còn bảy
ngục kia vây quanh, giống như các thôn làng bao quanh thành lớn.
Số lượng địa ngục: Có tám
địa ngục lớn và các địa ngục nhỏ phụ thuộc, tổng cộng có 136 địa ngục. Chúng
sanh trong địa ngục thọ khổ vô cùng không thể dùng lời lẽ ngôn từ trần gian mà
nói hết được, một ngày một đêm, tội nhân muôn lần sống muôn lần chết, trải qua
vô số kiếp, hết ngục này sanh qua ngục khác để chịu tội, muôn vàn cách thức
hành hình tội nhân, nào lửa nung, đao kiếm, chó sắt, rắn hung, nhiều cách nhiều
kiểu hành hình tội nhân, nước sôi lửa đỏ, búa to, kẹp lớn v.v không kể xiết.
Kinh Quán Tam Muội Hải ghi: “Địa ngục A tì dài 8000 do tuần, có 7 lớp thành
sắt, 7 tầng lưới sắt. Dưới có 18 ngăn, mỗi ngăn có 7 lớp rừng đao, 7 lớp cây
kiếm vây quanh. Bốn góc có 4 chó đồng lớn, thân dài 40 do tuần, mắt như điện
chớp, nanh như cây kiếm, răng như núi đao, lưỡi như gai sắt, lông bốc lửa dữ,
xông mùi khói hôi hám. Có 18 ngục tốt, miệng như miệng doạ xoa, có 64 con mắt
đỏ rực như hòn sắt nóng. Răng nanh chỉa lên cao 4 do tuần. Đầu mỗi nanh phun ra
lửa, đốt xe sắt phía trước. Căm xe cũng phun ra lửa, phát ra đao kiếm bén nhọn,
đốt cháy thành A tì đỏ rực như đồng nung. Mỗi ngục tốt có 8 đầu, 16 sừng. Trên
mỗi sừng phun ra lửa, lửa biến thành thép, lại thành bánh xe đao, nối nhau xoay
tròn trong vòng lửa cháy, đầy cả thành A tì.
Trong thành có 7 phướn sắt, từ phướn lửa mạnh vọt lên như nước sôi, khiến sắt
chảy tràn khắp cả thành A tì. Trên 4 cửa thành, có 18 chảo đồng sôi, chảy tràn
khắp thành A tì. Trong mỗi ngăn ngục, có 84000 con rắn sắt lớn phun ra nọc độc
và lửa dữ, thân lớn đầy cả thành. Những con rắn này gầm thét như sấm dậy, tuôn
ra hòn sắt lớn đầy cả thành. Lại có 500 dạ xoa, 500 ức con trùng, mỗi con trùng
có 84000 cái mỏ. Đầu mỏ có lửa phun ra như mưa xối xuống khắp thành A tì. Khi
những con trùng ấy rơi xuống, lửa dữ ở ngục A tì bùng cháy, đốt nóng 84000 do
tuần, xông thẳng lên núi Ốc tiêu dưới đáy biển lớn, khiến những giọt nước biển
như trục xe biến thành mũi thép nhọn đầy cả ngục A tì.
* Ốc Tiêu: Khối đá to lớn hút
nước ở dưới đáy biển được nói trong kinh Hoa Nghiêm. Vì lửa địa ngục ở phía
dưới liên tục thiêu đốt, nên khối đá này nóng bỏng và kết thành một tảng to,
cho nên gọi là núi Ốc Tiêu.
Nếu người nào giết cha hại mẹ, lăng nhục lục thân, thì khi mạng chung,
chó đồng há miệng biến hoá ra 18 xe giống như xe vàng trên có che bảo cái.
Những ngọn lửa dữ hoá thành ngọc nữ. Tội nhân từ xa trông thấy, sinh tâm vui
mừng muốn đến. Bấy giờ gió lạnh thổi đến, tội nhân tê cóng, kêu rên. “Thà ngồi
trên xe chịu lửa đốt cháy ”, Thế rồi, lửa bùng cháy mạnh, họ liền mạng chung.
Tội nhân lại thấy mình ngồi trên xe vàng ngắm nhìn ngọc nữ, nhưng bị ngọc nữ
cầm búa chém đứt thân thể, chỉ trong thời gian co duỗi cánh tay, rơi thẳng
xuống địa ngục A tì.
Như bánh xe lửa xoay tròn, tội nhân từ ngăn trên rớt xuống ngăn dưới, thân đầy
cả ngăn. Chó đồng sủa lớn, rồi nhai xương, nuốt tuỷ người tội. Ngục tốt la sát
cầm chỉa sắt lớn, xóc đầu dựng người tội dậy, toàn thân lửa cháy đầy cả ngục A
tì.
Bấy giờ vua Diêm La lớn tiếng quát: “Kẻ ngu si kia gieo nhân địa ngục. Khi ở nhân
gian, ngươi bất hiếu với cha mẹ, tà kiến , kiêu mạn, ác độc, nên nay đoạ vào
địa ngục A tì, như thế, xoay vần trải qua vô lượng kiếp thống khổ, không thể
nói hết.
Một ngày một đêm, người này chịu tội ở địa ngục bằng 60 tiểu kiếp ở cõi Diêm
phù đề. Như vậy, thọ mạng đến hết một đại kiếp. Người phạm đủ 5 tội nghịch phải
chịu cả 5 đại kiếp.
Lại có chúng sanh phạm 4 trọng giới, uổng nhận của tín thí, phỉ báng Tam Bảo,
tà kiến, không tin nhân quả, không học Bát Nhã, khinh chê mười phương chư Phật,
trộm vật của chúng tăng, dâm dật, bạo ngược, cưỡng bức tỳ kheo giữ giới thanh
tịnh, huỷ nhục chị em, bà con thân thích, làm các việc ác. Những người này khi
mạng chung, phải chịu tội báo trải qua 4.8000 đại kiếp. Họ vào trong 10 ngăn
ngục ở phương đông, cũng chịu khổ như trên, phương nam, tây, bắc cũng lại như
vậy. Thân người tội đầy cả địa ngục A tì, bốn chi trải khắp 18 ngăn ngục.
Địa ngục A tì có 18 địa ngục nhỏ. Mỗi địa ngục nhỏ lại có 18 địa ngục băng
lạnh, 18 địa ngục tối tăm, 18 địa ngục Nóng ít, 18 địa ngục xe đao, 18 địa ngục
xe kiếm, 18 địa ngục xe lửa, 18 địa ngục phân sôi, 18 địa ngục nước sôi, 18 địa
ngục sông tro, 500 địa ngục rừng kiếm, 500 địa ngục rừng gai, 500 địa ngục cột
đồng, 500 ức địa ngục Máy sắt, 500 ức địa ngục lưới sắt, 18 địa ngục hang sắt,
18 địa ngục hòn sắt, 18 địa ngục đá nhọn, 18 địa ngục uống nước đồng sôi.
Như vậy, trong địa ngục lớn A tì có 18 địa ngục nhỏ. Mỗi địa ngục nhỏ lại có 18
ngăn địa ngục, bắt đầu từ địa ngục Băng lạnh cho đến địa ngục uống nước đồng
sôi, tổng cộng có 142 ngăn địa ngục. Tội nhân tuy tạo tội không giống nhau,
nhưng đều trải qua các địa ngục này để chịu tội khổ.
Thời gian thọ tội:
Kinh Khởi Thế ghi: “Đức Phật dạy: Ví như có 20 hộc mè, có một người cứ 100 năm
nhặt một hạt ném sang nơi khác. Ném hết số mè trong 20 hộc rồi mà tuổi thọ của
các tội nhân trong địa ngục vẫn chưa hết.
Thời gian ấy là một thọ mạng của địa ngục Át phù đà. Như vậy 20 thọ mạng của
địa ngục Át phù đà là một thọ mạng ở địa ngục Nê la phù đà cứ như thế tăng lên
cho đến địa ngục thứ 8 là Phân đà lợi. 20 thọ mạng ở địa ngục phân đà lợi là
thọ mạng ở địa ngục Ba đầu ma, tức là một trung kiếp.
Kinh Na Tiên tỳ kheo vấn Phật ghi: “Sức nóng của lửa thế gian không bằng lửa
địa ngục. Như lấy một hòn đá nhỏ bỏ vào lửa thế gian, từ sáng đến chiều viên đá
vẫn không tiêu huỷ, nhưng lấy một tảng đá lớn bỏ vào lửa địa ngục thì lập tức
cháy tiêu. Cũng như người làm ác, chết rơi vào địa ngục, đến mấy nghìn vạn năm
vẫn không chết. Hoặc như các loài rồng rắn lớn, ăn cát đá, cát đá tiêu ngay.
Như con người ăn cá thịt, xương động vật vào trong bụng một ngày một đêm tiêu
ra nước. Nhưng người mang thai, thai nhi cũng ở trong bụng đó vẫn không tiêu mà
còn lớn dần...
Đó là do sức nghiệp thiện, ác mà tiêu hay không tiêu. Những việc thiện ác con
người đã tạo luôn theo họ như bóng theo hình. Người ấy chết đi chỉ mất thân
này, nhưng hành nghiệp của họ vẫn còn không mất. Thí như ban đêm đốt đèn viết
chữ, đèn tắt nhưng chữ vẫn còn, đèn sáng chữ hiện. Đời nay tạo nghiệp thiện,
ác, đời sau mới nhận quả báo.
Trong địa ngục Bát đầu ma, lửa cháy hừng hực, dù người tội đứng cách ngọn lửa
100 do tuần vẫn bị lửa thiêu cháy. Nếu người tội cách 60 do tuần thì hai tai bị
điếc, nếu người tội cách 50 do tuần thì đôi mắt bị mù.
Tỳ kheo Cù Ba Lợi dùng tâm độc ác huỷ báng Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên sau khi
mạng chung phải đoạ vào địa ngục Bát Đầu ma này.
Kinh Khởi Thế ghi:”Nếu các chúng sanh cách địa ngục Ba đầu ma 100 do tuần thì
bị lửa dữ đốt cháy, nếu cách 50 do tuần thì bị lửa xông lên làm mù hai mắt, nếu
cách 25 do tuần thì máu thịt bị thiêu đốt tan nát. Đó là do khởi tâm vẫn đục,
tâm não hại, tâm ác độc, tâm không lợi ích, tâm không từ bi, tâm không thanh
tịnh đối với người xuất gia tu hành phạm hạnh, nên tự chuốc lấy hoạ này. Vì
vậy, các ông nên khởi thân khẩu ý nghiệp từ hoà đối với tất cả những vị tu phạm
hạnh để thường được an lạc.
Thế Tôn nói kệ rằng:
Những người sống tại thế gian này
Tự nhiên trên lưỡi sinh dao búa
Bởi miệng tuôn ra lời ác độc
Trở lại hại bản thân mình
Không ca ngợi người đáng ca ngợi
Lại ca ngợi người chẳng ra gì
Đó gọi là tránh đấu nơi miệng
Khiến mọi người không an lạc
Nếu người cờ bạc mà thắng cuộc
Là việc tranh nhỏ ở thế gian
Nếu khởi ý xấu người tịnh hạnh
Là tranh đấu lớn nơi cửa miệng
Đoạ vào ba mươi sáu trăm nghìn
Các địa ngục Nê La phù đà
Rồi năm địa ngục A phù đà
Sau đoạ địa ngục Ba đầu ma
Do thân miệng ý gây nghiệp ác
Chê bai thánh nhân nên như thế .
Vua quản ngục: Kinh Vấn địa ngục và kinh Tịnh độ Tam muội ghi: “Cả thảy
có 134 địa ngục. Trước hết nói về tên gọi và nơi ở của vị chủ ngục. Vua Diêm La
đời trước là vua nước Tì sa, từng chiến đấu với vua Duy Đà Thuỷ Sinh, nhưng vì
thua trận, nên lập thệ, “Ta nguyện làm chủ địa ngục ”. Lúc ấy 18 đại thần thống
lãnh 100 vạn người đầu có sừng, đều oán hận và cùng lập nguyện: “Sau này chúng
tôi sẽ giúp vua trị tội bọn kia ”.
Vua Tì sa thuở ấy nay là vua Diêm La, 18 đại thần nay là các vua nhỏ, 100 vạn
chúng là những ngục tốt.
Kinh Trường A Hàm ghi: “Trong núi kim cang ở Nam Diêm phù đề có cung điện Diêm
La, chu vi 60 do tuần. Ngày đêm ba lần, có vạc đồng lớn tự nhiên hiện ra. Nếu
thấy vạc xuất hiện trong cung thì vua sợ hãi, bỏ ra ngoài cung. Nếu vạc xuất
hiện ngoài cung thì vua vào trong cung. Có một ngục tốt cao lớn bắt vua nằm
trên giường sắt nóng, lấy móc sắt tách miệng, nước đồng sôi rốt vào, chảy xuống
chổ nào thì chỗ ấy tan rã. Thọ tội xong, vua cùng vui chơi với thể nữ. Những
đại thần dù có hưởng phúc báo cũng bị chịu khổ như thế.
Kinh Vấn địa ngục ghi 18 vua nhỏ tức 18 vị thống lãnh 18 địa ngục:
1- Vua Ca diên quản ngục A Tì.
2- Vua Khuất Tuân quản ngục Núi dao
3- Vua Phí tiến thụ quản ngục cát nóng
4- Vua Phí khúc quản ngục phân sôi
5- Vua Ca Thế quản ngục Tai đen
6- Vua Cái Tha quản ngục Xe lửa
7- Vua Thang vị quản ngục Vạc nước sôi
8- Vua Thiết Ca nhiên quản ngục Giường sắt
9- Vua Ác sinh quản ngục Núi cái
10- Vua .... quản ngục Băng lạnh
11- Vua Tỳ ca quản ngục Lột da
12- Vua Diêu phầu quản ngục Súc sinh
13- Vua Đề bạc quản ngục Đao bính
14- Di Hoả quản ngục Cối sắt
15- Vua Duyệt Đầu quản ngục Băng lạnh
16- Vua . . . . . quản ngục Ống sắt
17- Vua Danh Thân quản ngục Giòi bọ
18- Vua Quán Thân quản ngục Nước đồng sôi.
Kinh Tịnh độ Tam Muội ghi: 30 địa ngục, mỗi ngục đều có chủ ngục, nhưng không
ghi ra, chỉ nêu tên 5 vị
1 - Quan
Tiên trị tội sát sanh
2- Quan
Thuỷ trị tội trộm cướp
3- Quan
Thiết trị tội tà dâm
4- Quan Thổ
trị tội lưỡng thiệt
5- Quan
Thiên trị tội uống rượu
Kinh Vấn địa ngục ghi “Bốn mặt của cung điện vua Diêm La đều có địa ngục. Ánh
sáng nhật nguyệt không chiếu đến đây. Khi con người mạng chung, liền thụ thân
trung ấm. Thân trung ấm là thân trung gian giữa tử ấm và sanh ấm. Người tội
nương thân trung ấm mà vào thành Nê lê. Thành này là nơi tụ tập của những người
tội khi chưa hình phạt. Đến khi gió thổi đến thì tuỳ nghiệp mà thọ thân lớn
hoặc nhỏ. Nếu ngọn gió hôi thổi đến thành thân hôi thối, nếu ngọn gió hương
thơm thổi đến thì thành thân thơm.
Cung điện của vua Diêm La:
Kinh Khởi Thế ghi “Bên ngoài hai núi Thiết vi, ở phía nam Diêm phù đề, có cung
điện của vua Diêm La. Cung điện này dài rộng sáu nghìn do tuần, có 7 lớp tường
vách, 7 lớp lan can, 7 lớp lưới treo linh. Ngoài có 7 lớp hàng cây đa la, bao
bọc chung quanh. Lại có vô số cảnh vật xinh đẹp đều do 7 báu tạo thành. Bốn
phía cung thành có 4 cửa. Mỗi cửa đều có đài gác, cung điện, vườn hoa, ao hồ.
Trong vườn có nhiều loại cây, quả ngon nặng trĩu cành, hương thơm theo gió xông
khắp, vô số chim chóc ca hát líu lo.
Vua Diêm La vì nghiệp ác nên chịu quả báo bất thiện, đêm ngày sáu thời đều có
nước đồng sôi tự nhiên hiện ra trước mặt, khi ấy cung vua biến thành sắt, phúc
báo năm dục đều biến mất. Thấy vậy, vua sợ hãi, bất an, toàn thân rúng động,
liền đi ra ngoài. Nếu cảnh này hiện bên ngoài thì vua trở vào cung. Lúc ấy ngục
tốt bắt vua Diêm La, nhất bổng đặt trên nền sắt nóng, lửa dữ hừng hực, cháy
sáng đỏ rực. Sau đó, ngục tốt lấy kiềm sắt cạy miệng rồi rốt nước đồng sôi vào,
khiến vua Diêm La bị thiêu cháy, từ môi miệng đến lưỡi, cổ họng, ruột già ruột
non...từ trên xuống dưới đều cháy rụi.
Lúc đó vua nghĩ: “Tất cả chúng sanh do đời trước thân làm việc ác, miệng
nói lời ác, ý nghĩ điều ác, nay ta và các chúng sanh cùng tạo nghiệp ác như
thế, nên phải chịu khổ này. Xin nguyện từ nay, sau khi xả báo thân này, thọ
thân khác, được sinh làm người có lòng tin hiểu giáo pháp Như Lai, cạo bỏ râu
tóc mặc ca sa, xuất gia tu học. Sau khi xuất gia tu học, tu chứng đạo quả, sinh
tử sẽ dứt, phạm hạnh sẽ thành, những việc cần làm sẽ làm xong, không còn thọ
thân sau.
Sau khi Diêm La khởi các niệm như thế, cung điện của vua đang ngự liền trở
thành bảy báu, giống như cõi trời, phúc báo năm dục liền hiện ra đầy đủ. Vì ba
nghiệp đều thiện nên được an vui.
Ba châu còn lại chỉ có địa ngục biên và ngục cô độc, không có địa ngục lớn. Vì
sao ? Bởi vì chúng sanh châu Nam Thiệm bộ tạo nghiệp thì rất lớn mà tạo nghiệp
ác cũng rất nhiều, không giống như các châu kia.
Có thuyết cho là ở Châu Bắc Câu lô không có địa ngục, vì nơi đó thọ nhận nghiệp
hoàn toàn thanh tịnh.
Nghiệp nhân: Kinh Thập
Luận ghi: “Năm tội nghịch là nghiệp ác nặng nhất. Đó là cố ý giết hại cha , mẹ,
A la hán, phá hoà hiệp tăng, ác tâm làm thân Phật chảy máu. Nếu người nào phạm
một trong năm tội nghịch này không được xuất gia, thọ cụ túc giới. Nếu đã xuất
gia, thọ giới cụ túc thì nên tẩn xuất, chứ không đánh đập hay giam giữ. Nếu cho
xuất gia, người cho phạm tội trọng. /.
---------—]–---------
0 nhận xét:
Đăng nhận xét