Thứ Ba, 1 tháng 11, 2016

GIỚI TIẾP HIỆN

GIỚI TIẾP HIỆN


Theo Thiền sư Nhất Hạnh để hiện đại hoá đạo Phật cần phải tổ chức hai dòng tu: Thể nhập và Tiếp hiện. Trong tu viện Thể nhập, người tu sĩ chỉ lo tu học, nghiên cứu, tham thiền, thực nghiệm để chứng ngộ mà không phải lo công việc tổ chức của Giáo hội, hướng dẫn cư sĩ. Về tứ sự do Giáo hội lo, nên không phải chiều theo ý của người cư sĩ. Như thế nếp sống rất đơn giản, giới luật sẽ đơn giản hoá và tu chỉnh lại “250 giới sẽ còn lại chừng 30 căn bản và cần thiết”(hoài bão này được thực hiện trong đạo Phật hiện đại hoá in lần thứ I năm 1965, nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện được). Dòng tu tiếp hiện được thành lập để làm cầu nối giữa dòng tu thể nhập và cuộc đời, nhờ đó mà nguồn suối tu chứng đạo vô hành, tính chất xuất thế của đạo Phật được thấm nhuần vào mọi sinh hoạt trong xã hội. Đó là ý nghĩa đích thực của đạo Phật hiện hữu ở thế gian. Dòng tu tiếp hiện ra đời là cánh cửa phương tiện cho người tri thức, văn nghệ sĩ bước vào ngôi nhà Phật giáo, và sẽ “trở thành những người có trách nhiệm trực tiếp về sự tồn vong của lí tưởng đạo Phật”.
Tuỳ theo khả năng, Người tu trong dòng Tiếp hiện sẽ phát nguyện gia nhập vào các ngànhh hoạt động. Do đó, có dòng chuyên về giáo dục, có dòng chuyên về y tế, kinh tế, về văn hoá nghệ thuật, về diễn giảng, cố vấn giáo lý, về nghi lễ, về từ thiện vv... Nói chung dòng tu Tiếp hiện bao gồm các vị xuất gia chưa hội đủ điều kiện để gia nhập dòng tu Thể nhập và các cư sĩ.
Giới pháp của dòng tu này công bố trong đạo Phật hiện đại hoá giữa thập kỷ 60 và được tu chỉnh in lại trong nghi thức tụng niệm năm 1995 như sau:
GIỚI THỨ NHẤT: không được thờ làm thần tượng bất cứ một chủ nghĩa hay một lý thuyết nào, kể cả những chủ nghĩa và lý thuyết Phật giáo. Những hệ thống giáo lí trong đạo Phật phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn tu tập mà không là những chân lý tuyệt đối để bảo vệ và thờ phụng.
GIỚI THỨ HAI: không được yên trí rằng những kiến thức mình hiện có là những chân lý bất di bất dịch, như thế để tránh sự trở thành cố thủ và hẹp hòi, phải học thái độ phá chấp và cởi mở để đón nhận quan điểm của kẻ khác. Chân lý chỉ có thể thực chứng trong sự sống mà không thể tìm kiếm trong kiến thức và khái niệm. Phải nguyện suốt đời là một người đi tìm học và phải thường trực quan sát sự sống nơi chính mình và nơi cuộc đời.
GIỚI THỨ BA: không được ép buộc người khác, kể cả trẻ em theo quan điểm của mình, bất cứ bằng cách nào: uy quyền, sự mua chuộc, sự doạ nạt, sự tuyên truyền và giáo dục nhồi sọ. Phải tôn trọng sự khác biệt của người khác và sự tự do nhận thức của họ. Tuy nhiên, dùng những phương tiện đối thoại và bất bạo động để giúp người khác cởi bỏ cuồng tín và cố chấp.
GIỚI THỨ TƯ: không được trốn tránh thực tại khổ đau, nhắm mắt trước khổ đau và đánh mất ý thức về khổ đau của cuộc sống. Phải tìm tới những kẻ khổ đau. Bằng những phương tiện tiếp xúc, tường thuật, hình ảnh, âm thanh. Nên thường xuyên tự đánh thức mình và đánh thức những người chung quanh về sự có mặt của những đau khổ hiện thực khắp nơi trên thế giới.
GIỚI THỨ NĂM: không nên tích luỹ tiền bạc và của cải trong khi nhiều người đang đói khổ thiếu thốn. Không được đạt danh vọng và quyền hành làm mục tiêu của đời mình. Phải sống giản dị và phải biết chia sẻ thì giờ, khả năng và tài vật mình có với những kẻ thiếu thốn.
GIỚI THỨ SÁU: không được giữ tâm sân hận và thù oán. Hãy học cách quán chiếu và chuyển hoá những hạt giống của sân hận và oán thù đã phát khởi, hãy nắm lấy hơi thở chánh niệm và quán chiếu về bề sâu để thấy được bản chất của tâm niệm sân hận và oán thù của mình và cũng để thấy được tự tánh, và hoàn cảnh của những người đã gây tâm niệm sân hận và oán thù ấy. Nên lấy con mắt từ bi để nhìn mọi người và mọi loài.
GIỚI THỨ BẢY: không được buông thả theo loạn tưởng và hoàn cảnh để tự đánh mất mình. Phải biết thực tập hơi thở và nụ cười chánh niệm để trở về tiếp xúc với những gì đang xảy ra trong giờ phút hiện tại. Hãy tập tiếp xúc với những gì mầu nhiệm, tươi mát và lành mạnh trong ta và quanh ta để liên tục gieo trồng những hạt giống an lành, hạnh phúc và hiểu biết làm động lực chuyển hoá chiều sâu của tâm thức trên đường thành tựu đạo nghiệp.
GIỚI THỨ TÁM: không được nói và làm những điều có thể tạo nên sự bất hoà trong đoàn thể và có thể tan vỡ đoàn thể. Phải sử dụng ái ngữ và hành động hoà giải để giúp giải quyết những vụ bất hoà dù lớn dù nhỏ.
GIỚI THỨ CHÍN: không được nói dối để mưu cầu tài lợi và sự kính phục, không được nói những lời gây chia rẽ căm thù, không được lan truyền những tin mình không biết là có thật, không được phê bình và lên án những điều mình không biết chắc. Phải nói những lời chân thật và có giá trị xây dựng sự hiểu biết và hoà giải, phải có can đảm nói ra sự thật về những tình trạng bất công, dù hành động này có thể mang lại những đe doạ cho sự an ninh của mình.
GIỚI THỨ MƯỜI: không được lợi dụng đạo Phật và các đoàn thể Giáo hội vào mục tiêu quyền bính, không được biến các giáo đoàn thành những đảng hoạt động về chính trị. Sống trung thực đời sống tâm linh và tôn giáo mình, giáo đoàn trong đó mình sống phải có thái độ rõ rệt về những tình trạng áp bức và bất công xã hội, và sử dụng ảnh hưởng mình để chuyển đổi các tình trạng ấy mà không nên dấn thân vào những cuộc tranh chấp phe phái.
GIỚI THỨ MƯỜI MỘT: không được sống theo tà mạng, không được sinh sống bằng những nghề nghiệp có thể gây tàn hại cho con người và thiên nhiên, không được đầu tư vào doanh nghiệp chuyên làm lợi cho một nhóm người trong khi tước đoạt môi trường và cơ hội sinh sống của những nhóm người khác. Nên chọn một nghề có thể giúp mình thực hiện được lý tưởng từ bi cứu khổ của đạo Phật.
GIỚI THỨ MƯỜI HAI: không được giết hại sinh mạng, không được tán thành sự chém giết. Phải tìm mọi cách có thể bảo vệ sinh mạng, ngăn chặn chiến tranh, xây dựng hoà bình.
GIỚI THỨ MƯỜI BA: không được lấy làm tư hữu những tiền bạc và của cải không phải của mình tạo ra, phải biết ngăn ngừa những kẻ tích trữ và làm giàu bất lương không kể gì đến sự đau khổ của những kẻ bị áp bức và thua thiệt.
GIỚI THỨ MƯỜI BỐN: không được đối xử với thân thể mình một cách khinh suất, phải biết bảo trọng thân thể mình, xem thân thể mình là đền thờ của tâm linh, là chiếc thuyền vượt biển. Phải học cách bảo tồn Tinh, Khí, Thần, để có thể có đủ năng lực hành đạo (phần này dành cho các vị cư sĩ) phải ý thức trọn vẹn trách nhiệm của mình về sự cho ra đời những sinh mạng mới và phải thường xuyên nghĩ tới môi trường sinh hoạt trong tương lai của những sinh mạng này.
Mười bốn giới điều trên có nội dung của giới Bồ Tát, biểu thị tinh thần từ bi trí tuệ và hành động nhập thế tích cực của đạo Phật.
Giới thứ nhất, hai, ba và bốn nói về nhận thức khách quan, phá trừ si mê cố chấp và nêu bật tinh thần khai phóng cao cả của đạo Phật. Giới thứ năm và sáu ngăn ngừa tham lam và sân hận. Sáu giới trên phá trừ ba nghiệp tham, sân, si. Giới thứ bảy thực tập hơi thở chánh niệm để có sự an lành, hạnh phúc trong giờ phút hiện tại, làm động lực chuyển hoá tâm thức trên đường thành tựu đạo nghiệp. Giới thứ tám và chín nói về khẩu nghiệp lành căn bản của sự trung tín, thành thực và xây dựng. Giới thứ mười không được lợi dụng đạo Phật để làm chính trị, mà dùng ảnh hưởng của mình để chuyển đổi tình trạng áp bức và bất công trong xã hội. Giới thứ mười một không được sống theo tà mạng. Giới thứ mười hai, mười ba và mười bốn giữ gìn sự trong sạch của thân nghiệp và có ý thức trách nhiệm đối với sinh mạng mình tạo ra. Sống theo tinh thần của mười bốn giới nêu trên, sẽ có một đời sống tốt đẹp, thanh cao, vị tha và tràn đầy tính chất Phật giáo.
Nguyên tắc chế giới, giới điều phải được hình thành trong bối cảnh sinh hoạt của Tăng đoàn hiện tại, từ trong sự vi phạm xảy ra thực tế mà thiết lập, chứ không tưởng tượng hay giả định. Vì yếu tố thời gian, địa phương, văn hoá, văn minh khác nhau rất lớn cho nên nội dung giữa giới bản cổ truyền và giới tân tu tất yếu phải có sự khác.
Những giới bao gồm những sinh hoạt mà trong thời Đức Phật hầu như ít xảy ra. Ví dụ quan hệ với chính quyền, chính trị, đảng phái thì ít có, cho nên trong giới bản cổ truyền không đề cập đến. Ngày nay tất cả các nước trên thế giới dù là chế độ Tư sản hay Cộng sản đều có hai sắc thái chính trị và đảng. Cho nên người tu nếu không chánh niệm sẽ rơi vào guồng máy chính trị và đảng phái cho nên giới Tân tu mới chế tác một số giới  có nội dung ngăn ngừa người tu tham gia chính trị và đảng phái “Vị nam khất sĩ nào trở thành thành viên của một đảng phái hay một tổ chức chính trị, hoặc bí mật hoặc công khai, vị ấy phạm giới Tăng thân giải cứu”.
Biến nghi lễ thành nghề cúng bái như giới thứ mười tám “Vị nam khất sĩ nào biến sự thực tập hộ niệm thành nghề cúng bái, đưa ra giá cả cần phải trả cho một lễ hoặc một đám tang, vị ấy phạm giới Tăng thân giải cứu”. Nói chung những giới mới có tính cách khế cơ và thực tiễn cần phải được thiết lập để giữ gìn sự trong sạch và giải thoát.

---------—]–---------

GIỚI TIẾP HIỆN Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét