GIỚI TIẾP HIỆN
Theo Thiền sư Nhất Hạnh để hiện đại hoá
đạo Phật cần phải tổ chức hai dòng tu: Thể nhập và Tiếp hiện. Trong tu viện Thể
nhập, người tu sĩ chỉ lo tu học, nghiên cứu, tham thiền, thực nghiệm để chứng
ngộ mà không phải lo công việc tổ chức của Giáo hội, hướng dẫn cư sĩ. Về tứ sự
do Giáo hội lo, nên không phải chiều theo ý của người cư sĩ. Như thế nếp sống
rất đơn giản, giới luật sẽ đơn giản hoá và tu chỉnh lại “250 giới sẽ còn lại
chừng 30 căn bản và cần thiết”(hoài bão này được thực hiện trong đạo Phật hiện
đại hoá in lần thứ I năm 1965, nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện được). Dòng tu
tiếp hiện được thành lập để làm cầu nối giữa dòng tu thể nhập và cuộc đời, nhờ
đó mà nguồn suối tu chứng đạo vô hành, tính chất xuất thế của đạo Phật được
thấm nhuần vào mọi sinh hoạt trong xã hội. Đó là ý nghĩa đích thực của đạo Phật
hiện hữu ở thế gian. Dòng tu tiếp hiện ra đời là cánh cửa phương tiện cho người
tri thức, văn nghệ sĩ bước vào ngôi nhà Phật giáo, và sẽ “trở thành những người
có trách nhiệm trực tiếp về sự tồn vong của lí tưởng đạo Phật”.
Tuỳ theo khả năng, Người tu trong dòng
Tiếp hiện sẽ phát nguyện gia nhập vào các ngànhh hoạt động. Do đó, có dòng
chuyên về giáo dục, có dòng chuyên về y tế, kinh tế, về văn hoá nghệ thuật, về
diễn giảng, cố vấn giáo lý, về nghi lễ, về từ thiện vv... Nói chung dòng tu
Tiếp hiện bao gồm các vị xuất gia chưa hội đủ điều kiện để gia nhập dòng tu Thể
nhập và các cư sĩ.
Giới pháp của dòng tu này công bố trong
đạo Phật hiện đại hoá giữa thập kỷ 60 và được tu chỉnh in lại trong nghi thức
tụng niệm năm 1995 như sau:
GIỚI
THỨ NHẤT: không được thờ làm thần tượng bất cứ một
chủ nghĩa hay một lý thuyết nào, kể cả những chủ nghĩa và lý thuyết Phật giáo.
Những hệ thống giáo lí trong đạo Phật phải được nhận thức như những pháp môn hướng
dẫn tu tập mà không là những chân lý tuyệt đối để bảo vệ và thờ phụng.
GIỚI
THỨ HAI: không được yên trí rằng những kiến
thức mình hiện có là những chân lý bất di bất dịch, như thế để tránh sự trở
thành cố thủ và hẹp hòi, phải học thái độ phá chấp và cởi mở để đón nhận quan
điểm của kẻ khác. Chân lý chỉ có thể thực chứng trong sự sống mà không thể tìm
kiếm trong kiến thức và khái niệm. Phải nguyện suốt đời là một người đi tìm học
và phải thường trực quan sát sự sống nơi chính mình và nơi cuộc đời.
GIỚI
THỨ BA: không được ép buộc người khác, kể cả trẻ
em theo quan điểm của mình, bất cứ bằng cách nào: uy quyền, sự mua chuộc, sự
doạ nạt, sự tuyên truyền và giáo dục nhồi sọ. Phải tôn trọng sự khác biệt của
người khác và sự tự do nhận thức của họ. Tuy nhiên, dùng những phương tiện đối
thoại và bất bạo động để giúp người khác cởi bỏ cuồng tín và cố chấp.
GIỚI
THỨ TƯ: không được trốn tránh thực tại khổ
đau, nhắm mắt trước khổ đau và đánh mất ý thức về khổ đau của cuộc sống. Phải
tìm tới những kẻ khổ đau. Bằng những phương tiện tiếp xúc, tường thuật, hình
ảnh, âm thanh. Nên thường xuyên tự đánh thức mình và đánh thức những người
chung quanh về sự có mặt của những đau khổ hiện thực khắp nơi trên thế giới.
GIỚI
THỨ NĂM: không nên tích luỹ tiền bạc và của
cải trong khi nhiều người đang đói khổ thiếu thốn. Không được đạt danh vọng và
quyền hành làm mục tiêu của đời mình. Phải sống giản dị và phải biết chia sẻ
thì giờ, khả năng và tài vật mình có với những kẻ thiếu thốn.
GIỚI
THỨ SÁU: không được giữ tâm sân hận và thù oán.
Hãy học cách quán chiếu và chuyển hoá những hạt giống của sân hận và oán thù đã
phát khởi, hãy nắm lấy hơi thở chánh niệm và quán chiếu về bề sâu để thấy được
bản chất của tâm niệm sân hận và oán thù của mình và cũng để thấy được tự tánh,
và hoàn cảnh của những người đã gây tâm niệm sân hận và oán thù ấy. Nên lấy con
mắt từ bi để nhìn mọi người và mọi loài.
GIỚI
THỨ BẢY: không được buông thả theo loạn tưởng và
hoàn cảnh để tự đánh mất mình. Phải biết thực tập hơi thở và nụ cười chánh niệm
để trở về tiếp xúc với những gì đang xảy ra trong giờ phút hiện tại. Hãy tập
tiếp xúc với những gì mầu nhiệm, tươi mát và lành mạnh trong ta và quanh ta để
liên tục gieo trồng những hạt giống an lành, hạnh phúc và hiểu biết làm động
lực chuyển hoá chiều sâu của tâm thức trên đường thành tựu đạo nghiệp.
GIỚI
THỨ TÁM: không được nói và làm những điều có
thể tạo nên sự bất hoà trong đoàn thể và có thể tan vỡ đoàn thể. Phải sử dụng
ái ngữ và hành động hoà giải để giúp giải quyết những vụ bất hoà dù lớn dù nhỏ.
GIỚI
THỨ CHÍN: không được nói dối để mưu cầu tài
lợi và sự kính phục, không được nói những lời gây chia rẽ căm thù, không được
lan truyền những tin mình không biết là có thật, không được phê bình và lên án
những điều mình không biết chắc. Phải nói những lời chân thật và có giá trị xây
dựng sự hiểu biết và hoà giải, phải có can đảm nói ra sự thật về những tình
trạng bất công, dù hành động này có thể mang lại những đe doạ cho sự an ninh
của mình.
GIỚI
THỨ MƯỜI: không được lợi dụng đạo Phật và các đoàn
thể Giáo hội vào mục tiêu quyền bính, không được biến các giáo đoàn thành những
đảng hoạt động về chính trị. Sống trung thực đời sống tâm linh và tôn giáo
mình, giáo đoàn trong đó mình sống phải có thái độ rõ rệt về những tình trạng
áp bức và bất công xã hội, và sử dụng ảnh hưởng mình để chuyển đổi các tình
trạng ấy mà không nên dấn thân vào những cuộc tranh chấp phe phái.
GIỚI
THỨ MƯỜI MỘT: không được sống theo tà mạng, không được
sinh sống bằng những nghề nghiệp có thể gây tàn hại cho con người và thiên
nhiên, không được đầu tư vào doanh nghiệp chuyên làm lợi cho một nhóm người
trong khi tước đoạt môi trường và cơ hội sinh sống của những nhóm người khác.
Nên chọn một nghề có thể giúp mình thực hiện được lý tưởng từ bi cứu khổ của
đạo Phật.
GIỚI
THỨ MƯỜI HAI: không được giết hại sinh mạng, không
được tán thành sự chém giết. Phải tìm mọi cách có thể bảo vệ sinh mạng, ngăn
chặn chiến tranh, xây dựng hoà bình.
GIỚI
THỨ MƯỜI BA: không được lấy làm tư hữu những tiền
bạc và của cải không phải của mình tạo ra, phải biết ngăn ngừa những kẻ tích
trữ và làm giàu bất lương không kể gì đến sự đau khổ của những kẻ bị áp bức và
thua thiệt.
GIỚI
THỨ MƯỜI BỐN: không được đối xử với thân thể mình
một cách khinh suất, phải biết bảo trọng thân thể mình, xem thân thể mình là
đền thờ của tâm linh, là chiếc thuyền vượt biển. Phải học cách bảo tồn Tinh,
Khí, Thần, để có thể có đủ năng lực hành đạo (phần này dành cho các vị cư sĩ)
phải ý thức trọn vẹn trách nhiệm của mình về sự cho ra đời những sinh mạng mới
và phải thường xuyên nghĩ tới môi trường sinh hoạt trong tương lai của những
sinh mạng này.
Mười bốn giới điều trên có nội dung của
giới Bồ Tát, biểu thị tinh thần từ bi trí tuệ và hành động nhập thế tích cực
của đạo Phật.
Giới thứ nhất, hai, ba và bốn nói về nhận
thức khách quan, phá trừ si mê cố chấp và nêu bật tinh thần khai phóng cao cả
của đạo Phật. Giới thứ năm và sáu ngăn ngừa tham lam và sân hận. Sáu giới trên
phá trừ ba nghiệp tham, sân, si. Giới thứ bảy thực tập hơi thở chánh niệm để có
sự an lành, hạnh phúc trong giờ phút hiện tại, làm động lực chuyển hoá tâm thức
trên đường thành tựu đạo nghiệp. Giới thứ tám và chín nói về khẩu nghiệp lành
căn bản của sự trung tín, thành thực và xây dựng. Giới thứ mười không được lợi
dụng đạo Phật để làm chính trị, mà dùng ảnh hưởng của mình để chuyển đổi tình
trạng áp bức và bất công trong xã hội. Giới thứ mười một không được sống theo
tà mạng. Giới thứ mười hai, mười ba và mười bốn giữ gìn sự trong sạch của thân
nghiệp và có ý thức trách nhiệm đối với sinh mạng mình tạo ra. Sống theo tinh
thần của mười bốn giới nêu trên, sẽ có một đời sống tốt đẹp, thanh cao, vị tha
và tràn đầy tính chất Phật giáo.
Nguyên tắc chế giới, giới điều phải được
hình thành trong bối cảnh sinh hoạt của Tăng đoàn hiện tại, từ trong sự vi phạm
xảy ra thực tế mà thiết lập, chứ không tưởng tượng hay giả định. Vì yếu tố thời
gian, địa phương, văn hoá, văn minh khác nhau rất lớn cho nên nội dung giữa giới
bản cổ truyền và giới tân tu tất yếu phải có sự khác.
Những giới bao gồm những sinh hoạt mà
trong thời Đức Phật hầu như ít xảy ra. Ví dụ quan hệ với chính quyền, chính
trị, đảng phái thì ít có, cho nên trong giới bản cổ truyền không đề cập đến.
Ngày nay tất cả các nước trên thế giới dù là chế độ Tư sản hay Cộng sản đều có
hai sắc thái chính trị và đảng. Cho nên người tu nếu không chánh niệm sẽ rơi
vào guồng máy chính trị và đảng phái cho nên giới Tân tu mới chế tác một số
giới có nội dung ngăn ngừa người tu tham gia chính trị và đảng phái “Vị
nam khất sĩ nào trở thành thành viên của một đảng phái hay một tổ chức chính
trị, hoặc bí mật hoặc công khai, vị ấy phạm giới Tăng thân giải cứu”.
Biến nghi lễ thành nghề cúng bái như giới
thứ mười tám “Vị nam khất sĩ nào biến sự thực tập hộ niệm thành nghề cúng bái,
đưa ra giá cả cần phải trả cho một lễ hoặc một đám tang, vị ấy phạm giới Tăng
thân giải cứu”. Nói chung những giới mới có tính cách khế cơ và thực tiễn cần
phải được thiết lập để giữ gìn sự trong sạch và giải thoát.
---------—]–---------
0 nhận xét:
Đăng nhận xét