THI KỆ THỰC TẬP CHÁNH NIỆM
Cách đây 330 năm luật sư Độc Thể Trung
Quốc (1501-1679) đã biên soạn Tác phẩm Tỳ Ni Nhật dụng thiết yếu làm sách sơ
cấp môn học Luật cho Sa di và Sa di ni. Một người mới xuất gia, phải học thuộc
lòng quyển luật này để thực tập chánh niệm trong đời sống hằng ngày. Ngay cả
những vị đã thọ đại giới cũng phải thực tập những oai nghi trong sách này. Đây
là phương pháp thực hành rất cơ bản để giữ gìn tâm ý thanh tịnh khi tiếp duyên
xúc cảnh, luôn tỉnh thức trong bốn oai nghi, cũng như làm việc và nghỉ ngơi.
Ngài Nhất Hạnh khi còn làm điệu cũng đã thực tập và đã nhận ra nó quá cũ kỹ so
với thời đại ngày nay, cho nên xem 45 bài kệ của Tỳ Ni Nhựt Dụng là những bài
kệ mẫu áp dụng cho những sinh hoạt thông thường hằng ngày, chứ không phải tất
cả. Lại nữa sự sinh hoạt của hàng tu sĩ ngày nay không chỉ đóng khung trong 45
tình huống ấy, nhất là thời đại ngày nay những hoạt động mà ngày xưa chưa có,
và cũng cần phải thực hành chánh niệm, cho nên Ngài Nhất Hạnh dựa vào những thi
kệ thực tập chánh niệm mà chế tác thêm những bài kệ có nội dung mới để áp dụng
nhu cầu của sự sinh hoạt thời hiện tại. Ví dụ ngày xưa chưa có điện thoại,
internet, xe hơi, máy bay, bia..v.v. Nhưng thời đại ngày nay những việc này đã
trở thành “nhựt dụng”. Vì thế, mỗi khi nhất điện thoại lên để nói chuyện với
ai, cũng cần sự thể hiện sự tỉnh thức ví như bài kệ dùng điện thoại như sau:
Tiếng đi ngoài ngàn dặm
Xây dựng niềm tin yêu
Mỗi lời là châu ngọc
Mỗi lời là gấm thêu.
Hay khi lái xe, phải biết mình sắp đi đâu,
nếu đi đến chỗ khổ đau, phiền não thì không nên đi, do đó khi rồ máy kèm theo
bài kệ nhắc sự tỉnh thức, sẽ giúp mình hiện hữu trong chánh niệm.
Trước khi rồ máy
Tôi biết tôi đi đâu
Xe với tôi là một
Xe mau tôi cũng mau
Ngoài ra còn có nhiều việc trong đời sống
hằng ngày như trồng cây, đổ rác, cắt cỏ, cắm hoa, pha trà,...cho ta thấy nhu
cầu làm mới giới luật và bổ sung việt hoá mang đậm nét văn hoá văn minh thời
đại so với giới luật cổ truyền, thì việc cách tân giới luật là việc cần thiết
và hợp thời. Luật học cổ truyền khiến người học chậm hiểu khó nhớ, vì vậy nó
cũng giúp cho người học có cơ hội học tập môn cổ văn Trung Hoa, tạo điều kiện
thâm nhập kinh điển Hán Tạng sau này. Mỗi bên đều có ưu điểm riêng, bên Tân tu
giúp cho học Viên học nhanh hiểu nhanh, đáp ứng đích thực nhu cầu, tu học trong
thời đại mới cho nên thi kệ thực tập chánh niệm của phái làm mới có tính khả
thi hơn.
Bản giới luật tân tu thể hiện lối văn dễ
hiểu, thích hợp với nhu cầu hành trì trong xã hội hiện đại và đáp ứng được nhu
cầu khát vọng của Tâm Bồ Đề nơi người mới tu học. Khi đọc mỗi giới người thọ
trì có cảm giác như chính mình nói lên từ đáy lòng, tự mình phát nguyện thọ trì
giới pháp, chứ không có tính áp đặt hay bắt buộc. Đó là ưu điểm mà ta thấy khác
với tinh thần của giới cũ. Như giới thứ nhất nói về giới sát sanh.
Ý thức được những sự đau khổ cho sự sát
hại gây ra, con xin học theo hạnh đại bi. Để bảo vệ sự sống của mọi người và
mọi loài, con nguyện không giết hại sinh mạng, không tán thành sự giết và không
để kẻ khác giết hại. Dù trong tâm tưởng hay trong cảnh sống hằng ngày của con.
Sửa đổi giới luật để thích hợp với thực tế
là điều mà các luật sư xưa nay ai cũng rất e ngại, nhưng với trí huệ và lòng
can đảm Ngài Nhất Hạnh đã làm được việc này.
Như giới thứ mười là giới không tích luỹ
tiền bạc và của cải. Tuy giới Phật chế, mỗi tháng Bố Tát ai cũng đọc, mà có mấy
ai giữ được trọn vẹn giới này. Thành ra đối trước phật ta đọc nguyện giữ giới
mà sau lưng lại không thực hành, thành ra chúng ta luôn nói dối với phật. Ngày
nay giới giữ tiền bạc và không ăn phi thời không ai giữ được mà còn đi xa hơn
nữa. Từ nơi không giữ giới thứ chín và mười này mà đạo đức và đức hạnh của
người tu sĩ xuống cấp một cách rõ ràng. Với ý nghĩ đó Ngài Nhất Hạnh đưa ra cách
hiểu và hành giới luật dễ nhận ra hơn và dễ hành trì có khả năng trị liệu những
điều hư hỏng nói một đàng mà làm một nẻo đã phổ biến trong tình trạng Tăng
chúng ngày nay như giới thứ 10.
Ý thức được rằng hạnh phúc của người xuất
gia được làm bằng chất liệu vững chải và thảnh thơi, con nguyện không để cho
tiền bạc và của cải làm vướng bận đường tu của con. Con nguyện không tích luỹ
tiền bạc và của cải, không đi tìm hạnh phúc trong sự chất chứa tiền bạc và của
cải. Không nghĩ rằng tiền bạc, châu báu và của cải có thể bảo đảm cho sự an
ninh của con.
Theo tinh thần của luật Nam truyền là
không được phép giữ tiền bạc, của báu để làm của riêng dù ít dù nhiều. Nó phù
hợp với đời sống người khất sĩ, chỉ sống bằng hạnh khất thực. Không có sỡ hữu
gì nó, phù hợp với Phật giáo Nguyên thuỷ.
Nhưng sang Phật giáo Bắc truyền gần như ai
cũng phải có tiền riêng để sinh hoạt, cho nên với tinh thần tri túc thì không
cố ý tích luỹ tiền bạc và của cải, cũng như không để tiền bạc và của cải làm
vướng bận việc tu hành, chứ không triệt để là không giữ và sở hữu tiền bạc,
giải thích như thế có tính thực tế và khả thi hơn.
Như giới thứ 9: trong 10 giới Sa di là
không được ăn phi thời, tức sau giờ ngọ thì không được ăn dù ăn chung với đại
chúng hay ăn riêng.
Trong kinh nói: Chư Thiên
ăn buổi sáng, Chư Phật ba đời ăn giờ ngọ, súc sanh ăn buổi chiều, quỷ thần ăn
ban đêm. Như Lai muốn dứt cái nhân của sáu thú, khiến vào trung đạo nên chế
định cho ăn đồng với Chư Phật ba đời.
Ngài Nhất Hạnh chuyển ý giới này như sau:
Ý thức được nhu yếu giữ gìn sức khoẻ sống
hoà hợp với Tăng thân và nuôi dưỡng lòng từ bi, con nguyện suốt đời ăn chay và
không ăn ngoài những bữa ăn của Đại chúng trừ trường hợp có bệnh.
Nói rằng: “không ăn ngoài những bữa ăn của
Đại chúng”. Cũng có nghĩa rằng nếu Đại chúng ăn phi thời thì mình vẫn được ăn
mà không vi phạm! Cách sửa đổi này rõ ràng trái với giới “Bất phi thời thực”của
Phật đã chế. Sự cách tân này có tính tuỳ tục , nghĩa là chấp nhận một thói quen
đã có, tức từ xưa Phật giáo Bắc Tông không ăn ngọ, thì Sa di hay Tỳ kheo Bắc
tông ngày nay cũng không phải ăn ngọ, chỉ cần ăn chung với Đại chúng là được.
Nếu không có tinh thần cởi mở thì không dễ gì chấp nhận điều này!
Giới điều mới này có ba yếu tố:
1/ Do nhu yếu giữ gìn sức khoẻ nên ngầm bỏ
qua ý nghĩa có tính quyết của giới cổ truyền là “Bất phi thời thực”.
2/ “Vì lòng từ bi nên nguyện ăn chay”. Đây
là điều khác biệt giữa Nam tông
và Bắc tông. Một bên ăn ngọ mà ăn mặn, còn bên kia ăn chay mà không ăn ngọ.
Theo giới điều của Phật chế và tinh thần bảo thủ thì Phật giáo Nam tông
không sai, nhưng vì lòng từ bi và khai phóng cũng như theo các kinh Đại thừa
thì Phật giáo Bắc tông ăn chay là điều tất nhiên. Do đó, vấn đề đúng sai ở đây
có tính tương đối.
3/ “Phải ăn chung với Đại chúng”. Nhấn
mạnh yếu tố hoà hợp, tính chất căn bản của Tăng. Nếu ở chùa mà mạnh ai nấy ăn
thì rõ ràng một tập thể ô hợp, là nguyên nhân của sự chia rẽ. Nhưng cũng phải
hiểu đây là ba bữa ăn được chấp nhận trong Thiền môn hiện nay.
Qua phân tích trên, giới thứ 9 mới này
mang tính khả thi hơn (tức nói được thì cũng có thể làm được, còn hơn là mỗi
nữa tháng đọc trước Phật và Đại chúng là không ăn phi thời mà vẫn cứ phạm) tức
là chấp nhận ngày ăn ba bữa như một sự thật không cần thay đổi. Chỉ nhấn mạnh
rằng vì lòng từ bi mà ăn chay và ăn trong tinh thần thanh tịnh, hoà hợp. Nhưng
yếu tố thứ nhất lại trái với Thánh chế là điều mà các luật sư xưa nay khó chấp
nhận.
Tóm lại,10 giới Sa di là giới pháp bất di
bất dịch. Ý nghĩa rõ ràng, nhưng do nhận thức và vận dụng vào thực tiễn mà cách
giải thích có sai biệt. Muốn giữ được nguyên vẹn tính chất cổ truyền trong thời
Phật ở Ấn độ mà vẫn áp dụng được ở các quốc độ khác nhau, thời đại khác nhau
đúng với thật chất của các giới điều Nguyên thuỷ thì không thể thực hiện một
cách trọn vẹn. Cho nên để áp dụng được một cách linh hoạt, Thiền sư Nhất Hạnh
đã có những lí giải và vận dụng theo cách của mình.
---------—]–---------
0 nhận xét:
Đăng nhận xét