Thứ Ba, 1 tháng 11, 2016

TỔNG KẾT VỀ SỰ TRUYỀN BÁ VÀ HÀNH TRÌ GIỚI LUẬT Ở VIỆT NAM

TỔNG KẾT VỀ SỰ TRUYỀN BÁ VÀ HÀNH TRÌ GIỚI LUẬT Ở VIỆT NAM


Giới học là môn học đứng đầu trong ba môn học giới-định-huệ, nên nói nhân giới sanh định, nhân định phát huệ. Trong luật lại chép: Tỳ ny tạng trụ. Phật pháp diệc trụ, Tỳ ny tạng diệt, Phật pháp diệc diệt. Điều đó nói lên rằng, giới luật còn là Phật pháp còn hiện hữu ở thế gian. Nhưng còn ở đây không có nghĩa là còn trên giấy tờ sách vở, mà nó phải được học tập, truyền bá và hành trì một cách thông minh sống động. Có như thế thì sức sống của giới luật mới được bảo tồn, phát triển. Và đáp ứng nhu cầu tu học qua mọi thời đại. Vì vậy mà việc giảng dạy biên soạn, chú giải luật phải được đặt lên hàng đầu, thế mà môn học này ở nước ta  từ xưa đến nay còn rất nghèo nàn yếu kém. Có nhiều nguyên nhân: đất nước Việt Nam luôn bị các thế lực những nước lớn đô hộ (Tàu, Pháp, Mỹ..) chiến tranh, áp lực chính trị, đảng phái, ngoại giao luôn công kích đánh phá và hạn chế Phật giáo làm cho Phật giáo cạn kiệt nhân tài, tài liệu bị thất thoát, do nhiều yếu tố trên kẻ tu thì ít kẻ lợi dụng đạo thì nhiều, làm cho sinh lực Phật giáo bị hao mòn. Môn luật học đành nằm trong số phận.
Với tinh thần hoài cổ bảo thủ thì các giới nghiên cứu luật không tán thành sự làm mới giới luật. Nhưng đây là xu thế của thời đại nếu chúng ta cố bảo thủ thì chúng ta chỉ có cái xác mà không có phần hồn. Đến lúc chúng ta cần phải suy nghĩ lại. Luật sư Hoằng Tán là một luật sư bảo thủ, Ngài viết trong Tứ phần giới bổn Như thích “Trong 3 Tạng Thánh giáo. Kinh Tạng và luận Tạng chung cho Tại gia và Xuất gia. Chỉ có luật Tạng riêng phần Tỳ kheo giữ gìn như bí tạng của vua, không phải hạng ngoại quan giữ được. Cho nên cư sĩ, Sa di xem trước, về sau chẳng được thọ đại giới, mắc tội sánh đồng với tội ngũ nghịch, phàm ai làm Thầy phải nên cẩn thận”. Quan niệm này ngày nay gần như không còn được đồng tình. Đa số những luật hiện đại cũng như những nghiên cứu giới luật, không những muốn giới luật phổ biến rộng rãi mà còn muốn tân tu giới luật, tức là sửa đổi những giới điều cần cho sát hợp với văn hoá, văn minh của thời đại và thêm vào những giới điều cần cho việc tu tập và hành trì một cách khế cơ và thực tiễn. Học giả Đoàn Trung Còn viết trong Tăng già thời Phật: “Chơn lý bổ ích thì chúng ta có thể  tìm học. Ai bảo cư gia hiểu luật là sự không cần? Không, cần lắm. Cư gia hiểu được mới có thể phân biệt được nhà sư có đức hay không, mới có thể phân biệt được vị nào giữ giới và kính mộ các sư trọn đời. Và ai dám chắc rằng cư gia chẳng có thể theo một phần lớn trong giới luật, chẳng đoan chánh như các sư nghiêm nghị, biết đâu mặc đồ người thế mà tâm trí kẻ thoát trần”. Ngài Nhất Hạnh cũng đồng quan điểm trên đã viết trong giới khất sĩ Tân tu: “Người tại gia có cơ hội đọc giới bản tân tu sẽ có khả năng phân biệt được vị xuất gia nào có hành trì giới luật nghiêm túc, vị nào không hành trì. Do đó, sẽ biết yểm trợ cho giáo đoàn xuất gia một cách hữu hiệu”. nhiều nhà nghiên cứu Phật học Đài Loan cũng có ý đồng tình như vậy.
Thực tế ở Việt Nam đã hình thành hai hệ thống giới luật theo khuynh hướng Tân tu. Đó là luật nghi của hệ phái khất sĩ và luật nghi của Ngài Nhất Hạnh biên soạn.
Luật nghi khất sĩ gồm có hai phần: phần biên tập theo giới bản cổ truyền rất ngắn gọn không thêm ý. Phần hai được biên soạn dành cho hệ phái.
Còn “Bước tới thảnh thơi”và “giới bản khất sĩ tân tu “thì dựa trên giới luật đã có rồi tu chỉnh, thêm bớt cho sát hợp với thực tiễn, ngoài ra vẫn tôn trọng và học tập theo giới cổ truyền. Hai cách làm này tuy có khác nhau nhưng về tinh thần vẫn nhất trí, đó là việc học và hành trì giới luật phải khế cơ khế thời, khế lý, tức phải có tính thực tiễn và khả thi. Nhưng những tác phẩm học luật nói trên chỉ là cương yếu, cần phải có những bộ lớn hơn để giải thích những bộ này cho người học hiểu rõ, biết sâu thấy rộng thì việc học và hành trì mới thấu đáo.
GIỚI: là những điều cấm chế do Đức Phật thiết lập để các đệ tử nương vào đó tu hành. Dựa vào công năng và kết quả của giới đem đến, luật nghi giới có 3 tên gọi:
Tỳ ny hay Tỳ nại da, xưa dịch là diệt, có 3 nghĩa.1/ Diệt nghiệp sai trái.
2/ Diệt phiền não. 3/ Được quả tịch diệt. Lại dịch: điều phục: tức điều luyện 3 nghiệp, chế phục các phiền não, khiến lỗi lầm không sinh.
THI LA: có 3 nghĩa: tính thiện, thanh lương và ngăn cấm. “Thích làm đạo lành, không tự phóng dật, đó gọi là Thi La”. Còn Thanh lương thì người trì giới, 3 nghiệp thanh tịnh, dứt các tội lỗi, tâm yên mà lý đắc, trong không nhiệt não, ngoài không than sợ, nên gọi là thanh lương. Lại giới có nghĩa là ngăn cấm, đề phòng được điều tệ ác sai trái.
Ba La Đề Mộc Xoa: có 3 nghĩa:  Bảo giải thoát (Bảo đảm người không bị nghiệp rơi rớt). Biệt giải thoát: (giữ được từng điều thì giải thoát được từng điều). Tuỳ thuận giải thoát.
Kinh Hoa Nghiêm nói “Giới là gốc của Vô thượng Bồ Đề nên phải trì tịnh giới đầy đủ. Nếu trì tịnh giới đầy đủ, thì tất cả các Đức Như Lai đều khen ngợi”. Lại nói: “Giới là thuốc tối thắng chửa trị bệnh mê hoặc, tiêu trừ các khổ ách, như cha mẹ bảo trì con cái, như đèn đuốc phá tan bóng tối, là cầu cống vượt qua sanh tử, là thuyền bè chở người qua biển khổ đến bờ an vui”. Kinh Di giáo: Giới luật là bậc Đại sư của các Thầy. Do đó, người giữ tịnh giới thì có được pháp lành, nếu không trì tịnh giới thì các công đức lành đều không sanh, vì vậy mà biết giới là trú xứ an ổn nhất sinh ra công đức.
Năm giới luật trong Phật giáo là năm giới căn bản nhất, đó là nền tảng của các giới khác. Nếu giữ vững năm giới này thì các giới khác có khả năng giữ được. Nhưng mọi người thường coi là giới nhỏ, giới thấp, nhưng một khi phá một trong năm giới này các giới kia mất hết.
 TÁM TRAI GIỚI: gọi là Bát quan trai giới, bát là tám, quan là cửa ải, khi cửa được đóng lại thì có thể ngăn ngừa kẻ địch hay đạo tặc xâm nhập vào, tức có nghĩa là ngăn chặn. Ở đây là ngăn chặn những điều tội lỗi, cướp đi công đức lành, hay ngăn ngừa những nguyên nhân đưa đến nhiễm ô, ràng buộc, không được tự tại giải thoát. Trai có nghĩa là ăn ngọ. Loại giới này có bảy điều cộng với một điều không ăn quá ngọ gọi là trai thì thành tám điều. Tám điều này có khả năng ngăn ngừa ác pháp nuôi lớn thiện pháp, cho nên gọi chung cả giới và trai là Bát quan trai giới. Người phật tử tại gia thọ Bát quan trai giới một ngày một đêm. Là một pháp tu tập sống theo hạnh xuất gia giải thoát.
MƯỜI THIỆN GIỚI: đây là mười điều lành, có khả năng đào luyện con người loại bỏ mọi xấu xa tội lỗi, hoàn thành nhiều hạnh lành và phước đức, người tu tập mười điều này thì việc làm, lời nói, ý nghĩ đều tốt đẹp. Đó là điều kiện để hưởng thụ một đời sống an lạc hạnh phúc ở hiện tại và mai sau.

---------—]–---------

TỔNG KẾT VỀ SỰ TRUYỀN BÁ VÀ HÀNH TRÌ GIỚI LUẬT Ở VIỆT NAM Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét