TỔNG KẾT
VỀ SỰ TRUYỀN BÁ VÀ HÀNH TRÌ GIỚI LUẬT Ở VIỆT NAM
Với tinh thần hoài cổ bảo thủ thì các giới
nghiên cứu luật không tán thành sự làm mới giới luật. Nhưng đây là xu thế của
thời đại nếu chúng ta cố bảo thủ thì chúng ta chỉ có cái xác mà không có phần
hồn. Đến lúc chúng ta cần phải suy nghĩ lại. Luật sư Hoằng Tán là một luật sư
bảo thủ, Ngài viết trong Tứ phần giới bổn Như thích “Trong 3 Tạng Thánh giáo.
Kinh Tạng và luận Tạng chung cho Tại gia và Xuất gia. Chỉ có luật Tạng riêng
phần Tỳ kheo giữ gìn như bí tạng của vua, không phải hạng ngoại quan giữ được.
Cho nên cư sĩ, Sa di xem trước, về sau chẳng được thọ đại giới, mắc tội sánh
đồng với tội ngũ nghịch, phàm ai làm Thầy phải nên cẩn thận”. Quan niệm này
ngày nay gần như không còn được đồng tình. Đa số những luật hiện đại cũng như
những nghiên cứu giới luật, không những muốn giới luật phổ biến rộng rãi mà còn
muốn tân tu giới luật, tức là sửa đổi những giới điều cần cho sát hợp với văn
hoá, văn minh của thời đại và thêm vào những giới điều cần cho việc tu tập và
hành trì một cách khế cơ và thực tiễn. Học giả Đoàn Trung Còn viết trong Tăng
già thời Phật: “Chơn lý bổ ích thì chúng ta có thể tìm học. Ai bảo cư gia
hiểu luật là sự không cần? Không, cần lắm. Cư gia hiểu được mới có thể phân
biệt được nhà sư có đức hay không, mới có thể phân biệt được vị nào giữ giới và
kính mộ các sư trọn đời. Và ai dám chắc rằng cư gia chẳng có thể theo một phần
lớn trong giới luật, chẳng đoan chánh như các sư nghiêm nghị, biết đâu mặc đồ
người thế mà tâm trí kẻ thoát trần”. Ngài Nhất Hạnh cũng đồng quan điểm trên đã
viết trong giới khất sĩ Tân tu: “Người tại gia có cơ hội đọc giới bản tân tu sẽ
có khả năng phân biệt được vị xuất gia nào có hành trì giới luật nghiêm túc, vị
nào không hành trì. Do đó, sẽ biết yểm trợ cho giáo đoàn xuất gia một cách hữu
hiệu”. nhiều nhà nghiên cứu Phật học Đài Loan cũng có ý đồng tình như vậy.
Thực tế ở Việt Nam đã
hình thành hai hệ thống giới luật theo khuynh hướng Tân tu. Đó là luật nghi của
hệ phái khất sĩ và luật nghi của Ngài Nhất Hạnh biên soạn.
Luật nghi khất sĩ gồm có hai phần: phần
biên tập theo giới bản cổ truyền rất ngắn gọn không thêm ý. Phần hai được biên
soạn dành cho hệ phái.
Còn “Bước tới thảnh thơi”và “giới bản khất
sĩ tân tu “thì dựa trên giới luật đã có rồi tu chỉnh, thêm bớt cho sát hợp với
thực tiễn, ngoài ra vẫn tôn trọng và học tập theo giới cổ truyền. Hai cách làm
này tuy có khác nhau nhưng về tinh thần vẫn nhất trí, đó là việc học và hành
trì giới luật phải khế cơ khế thời, khế lý, tức phải có tính thực tiễn và khả
thi. Nhưng những tác phẩm học luật nói trên chỉ là cương yếu, cần phải có những
bộ lớn hơn để giải thích những bộ này cho người học hiểu rõ, biết sâu thấy rộng
thì việc học và hành trì mới thấu đáo.
GIỚI: là những điều cấm chế do Đức Phật
thiết lập để các đệ tử nương vào đó tu hành. Dựa vào công năng và kết quả của
giới đem đến, luật nghi giới có 3 tên gọi:
Tỳ ny hay Tỳ nại da, xưa dịch là diệt, có
3 nghĩa.1/ Diệt nghiệp sai trái.
2/ Diệt phiền não. 3/ Được quả tịch diệt. Lại dịch: điều phục: tức
điều luyện 3 nghiệp, chế phục các phiền não, khiến lỗi lầm không sinh.
THI LA:
có 3 nghĩa: tính thiện, thanh lương và ngăn cấm. “Thích làm đạo lành, không tự
phóng dật, đó gọi là Thi La”. Còn Thanh lương thì người trì giới, 3 nghiệp
thanh tịnh, dứt các tội lỗi, tâm yên mà lý đắc, trong không nhiệt não, ngoài
không than sợ, nên gọi là thanh lương. Lại giới có nghĩa là ngăn cấm, đề phòng
được điều tệ ác sai trái.
Ba La Đề Mộc Xoa: có 3 nghĩa: Bảo
giải thoát (Bảo đảm người không bị nghiệp rơi rớt). Biệt giải thoát: (giữ được
từng điều thì giải thoát được từng điều). Tuỳ thuận giải thoát.
Kinh Hoa Nghiêm nói “Giới là gốc của Vô
thượng Bồ Đề nên phải trì tịnh giới đầy đủ. Nếu trì tịnh giới đầy đủ, thì tất
cả các Đức Như Lai đều khen ngợi”. Lại nói: “Giới là thuốc tối thắng chửa trị
bệnh mê hoặc, tiêu trừ các khổ ách, như cha mẹ bảo trì con cái, như đèn đuốc
phá tan bóng tối, là cầu cống vượt qua sanh tử, là thuyền bè chở người qua biển
khổ đến bờ an vui”. Kinh Di giáo: Giới luật là bậc Đại sư của các Thầy. Do đó,
người giữ tịnh giới thì có được pháp lành, nếu không trì tịnh giới thì các công
đức lành đều không sanh, vì vậy mà biết giới là trú xứ an ổn nhất sinh ra công
đức.
Năm giới luật trong Phật giáo là năm giới
căn bản nhất, đó là nền tảng của các giới khác. Nếu giữ vững năm giới này thì
các giới khác có khả năng giữ được. Nhưng mọi người thường coi là giới nhỏ,
giới thấp, nhưng một khi phá một trong năm giới này các giới kia mất hết.
TÁM TRAI GIỚI: gọi là Bát quan trai giới, bát là tám, quan là cửa
ải, khi cửa được đóng lại thì có thể ngăn ngừa kẻ địch hay đạo tặc xâm nhập
vào, tức có nghĩa là ngăn chặn. Ở đây là ngăn chặn những điều tội lỗi, cướp đi
công đức lành, hay ngăn ngừa những nguyên nhân đưa đến nhiễm ô, ràng buộc,
không được tự tại giải thoát. Trai có nghĩa là ăn ngọ. Loại giới này có bảy
điều cộng với một điều không ăn quá ngọ gọi là trai thì thành tám điều. Tám
điều này có khả năng ngăn ngừa ác pháp nuôi lớn thiện pháp, cho nên gọi chung
cả giới và trai là Bát quan trai giới. Người phật tử tại gia thọ Bát quan trai
giới một ngày một đêm. Là một pháp tu tập sống theo hạnh xuất gia giải thoát.
MƯỜI
THIỆN GIỚI: đây là mười điều lành, có khả năng đào
luyện con người loại bỏ mọi xấu xa tội lỗi, hoàn thành nhiều hạnh lành và phước
đức, người tu tập mười điều này thì việc làm, lời nói, ý nghĩ đều tốt đẹp. Đó
là điều kiện để hưởng thụ một đời sống an lạc hạnh phúc ở hiện tại và mai sau.
---------—]–---------
0 nhận xét:
Đăng nhận xét