CÕI NGƯỜI
Bàn
về cõi người, thì thân hình hư giả, mang nhiều ác nghiệp, thích tạo lỗi lầm, bỏ
đạo nhân trí, dứt nghĩa lương ân. Cho nên Thôi Trữ giết vua, Thương Thần hại
cha, Thất Hùng xâm đoạt (7 nước hùng mạnh thời chiến quốc, Trung Quốc: Tần, Sở,
Yên, Tề, Hán, Triệu , Nguỵ.). Lục quốc tranh nhau (6 nước thời chiến quốc: Tề ,
Sở, Yên, Hán. Triệu, Nguỵ . Vị trí từ Hàm Cốc trở về đông).
Tất cả chạy theo tâm kiêu xa,
khoe bày thói dâm đãng, khiến cho thuần phong vĩnh viễn đoạn, mỹ tục mãi mãi
không còn. Lại thêm ba độc, mười triền tranh nhau phát khởi, bốn dòng mênh
mông, năm cái sâu thẳm, điên đảo vô minh ngày càng tăng trưởng mạnh. Khiến cho
thân như cây bên bờ vực, mạng tựa thành trì sắp bị phá tan, như giọt mật rơi
vào miệng dễ tan, như dây mọc bên miệng giếng khó bảo toàn. Cuối cùng cũng sẽ:
nơi nấm mồ dưới cội tùng tiếng khóc não lòng, bên cổng lớn nhà cao lời bi ai
uất nghẹn.
Vì thế hôm nay tất cả nên sám hối.
Hễ là con người, từ thượng trí hạ ngu. Tây cận Cù di, Đông cực Vu đãi, Bắc đến
Đan việt, Nam tột Diêm phù, cho đến kẻ ở nhà lợp ván màng trướng bằng lông, vẻ
mình xoả tóc, ăn lông ở lổ, sống tổ chui hang, chạm móng nhuộm răng, hoặc kẻ
không nhà không cửa lang thang khắp chốn, hoặc kẻ vượt biển rộng sông sâu, hoặc
đu dây qua non hiểm, hoặc làm lính thú biên cương mang giáp cầm đao, hoặc giám
sát tù nhân, mang vàng vác gỗ, tất cả đều nguyện siêng tu lễ nghĩa, khiêm cung,
nhân từ hiếu thuận, dứt tâm phóng đãng, đoạn tuyệt hoang dâm. Để cho thân như
vàng đá, hình tựa non cao, tám khổ không thể xâm, chín hoạnh vĩnh viễn đoạn trừ.
· Giải
thích danh từ Nhân (loài người).
Theo Luận Bà sa, Nhân là ngừng dứt ý niệm, nghĩa là trong
sáu đường, đây là thành phần có khả năng ngừng dứt ý niệm cho nên gọi là Nhân.
Nói rõ hơn, trong sáu đường chỉ có con người mới có năng lực ngừng dứt tâm ý
phiền não loạn động, nên gọi là Nhân, là chấm dứt ý niệm. Có thuyết giải thích
Nhân là Nhẫn, tức có khả năng nhẫn chịu tất cả cảnh thuận nghịch ở thế gian.
Luận Lập thế A Tỳ đàm ghi: Nhân đạo có 8 nghĩa: Thông
minh, hơn hết, ý vi tế, chính giác, trí tuệ tăng trưởng, có khả năng phân biệt
thật giả, có căn khí nhận lãnh thánh đạo, do nghiệp thông tuệ sinh ra. Có
thuyết cho rằng vì có năng lực làm cho tâm ý vắng lặng nên gọi là Nhân, nghĩa
là trong năm đường, không loài nào có khả năng làm cho tâm ý vắng lặng hơn loài
người, nên gọi là Nhân, cho nên khế kinh ghi: “Loài người có ba năng lực vượt
chư thiên: 1/ là dũng mãnh, 2/ là nặng lực ghi nhớ, 3/ là có khả năng thực hành
phạm hạnh.
Nghiệp Nhân: Kinh Nghiệp báo
sai biệt ghi, có 4 trường hợp.:
1/ Người do nghiệp mà được quả báo thân vui nhưng
tâm không vui, đó là phàm phu có phúc.
2/ Người do nghiệp mà được quả báo, tâm vui
nhưng thân không vui, đó là các vị A La Hán thiếu phúc.
3/ Người do nghiệp mà được quả báo, thân tâm đều vui,
đó là các vị A La Hán có phúc.
4/ Người do nghiệp mà có quả báo, thân tâm đều không
vui, đó là các phàm phu bạc phúc.
Kinh Bồ Tát tạng ghi: “Thế Tôn nói với trưởng
giả Hiền Thủ:
Ông nên biết, ta quán thấy chúng sanh thế gian bị 10
nỗi khổ ép: Sanh, già, bệnh, chết, sầu,oán, khổ thọ, ưu, thống,khổ phiền não,
sanh tử lưu chuyển. Vì muốn đạt được Vô thượng Bồ đề, xa lìa các nỗi khổ bức ép
đó, nên ta khởi lòng tin thanh tịnh, rời nhà họ Thích, hướng đến đạo vô thượng.
Này trưởng giả. Ta quán thấy tất cả chúng sanh, từ vô thuỷ kiếp đến nay đã tạo
ra trăm nghìn lỗi lầm, thường bị trúng 10 mũi tên độc, ái, vô minh, dục, tham,
lỗi lầm, ngu si, mạn, kiến, hữu, vô hữu. Ta thấy vậy, nên cầu vô thượng Bồ đề,
cầu đoạn các mũi tên độc ấy mà khởi lòng tin thanh tịnh rời nhà họ Thích, hướng
đến đạo vô thượng. ”
Sang hèn- Giàu nghèo.
Luận theo bốn châu- Bắc Uất đan Việt , không có sang
hèn, vì nơi ấy không có người làm tôi tớ. Ba châu khác đều có kẻ sang người
hèn, vì có vua tôi và thứ dân, chủ và tớ khác nhau. Tổng quát về sang
hèn, thì gồm có 6 hạng. Đó là lược phân chia như vậy, nếu phân biệt chi tiết
thì không thể kể xiết.
Luận theo bốn châu, thì Bắc Uất đan việt nhân
dân đều rất giàu và đồng nhau, Hai châu Đông và Tây thì giàu trung bình, nhưng
cũng có kẻ hơn người kém. Nam Diêm Phù đề thì cực nghèo. Như vậy bốn châu, giàu
nghèo không giống nhau, như kinh đã nói, ở đây không thuật hết. Riêng cõi Diêm
Phù đề thì có thể chia làm ba bực:
Giàu bực thượng như Chuyển Luân Thánh
vương, sự giàu ấy có thể cho là trùm cả bốn phương, gồm hết bốn biển, tất cả vật
dụng không thiếu món nào.
Giàu bực trung: như Túc Tán Vương.
Giàu bực hạ: như vua Thụ đề già.
Thọ khổ:
Loài
người chỉ có khổ, không có vui, kẻ ngu cho là vui, người trí cho là khổ, chỉ
vọng thấy là vui, thật xét thì là khổ. Kinh Phó Pháp Tạng ghi: “Thế gian
đều là khổ, không thể tìm vui, thân này không bền chắc, mong manh dễ hoại. Thân
này như bọt nước, chớp mắt liền tan, dung nhan xinh đẹp đáng ưa, khi già
suy đến vẻ đẹp ấy còn đâu ? Thân này, bên ngoài được bọc bởi lớp da mỏng cho là
tốt đẹp, bên trong chứa toàn máu mủ bất tịnh. Thân hữu vi vô thường mau chóng,
trong chớp mắt 404 bịnh phát sinh, giống như trên hư không, bỗng nhiên nỗi sấm
chớp, kéo mây đen, thổi gió lớn, rồi trong phút chốc lại tan. Năm dục không bền
lâu cũng như vậy. Mọi người đang cùng nhau vui chơi, an ổn khoái lạc, bỗng chốc
vô thường kéo đến thì còn ai ? Thế gian quá nhiều đau khổ, chẳng thể ở
lâu ?
Cho nên biết, thân người vô thường, khổ, theo
lẽ nên sinh tâm nhàm chán, mau chóng cầu giải thoát. Tất cả thân hữu lậu đều
chứa nhóm các khổ, như ung nhọt, như nhà xí, như tim trúng tên độc, sinh già
bệnh chết xoay chuyển không cùng tận, là pháp vô thường bại hoại, chóng mục
nát. Thân như tù nhân sắp chết, mạng chẳng còn bao lâu, thân như tù nhân không
có gì đáng ưa thích, như cây ăn quả trồng bên đường, mãi bị người ném đá, thân
này đáng nhàm chán, cuối cùng trở về chỗ hoại diệt, bấy giờ mặc cho quạ, kên
kên, lang sói tranh nhau đến cắn xé, mặc cho gió thổi nắng thiêu, trương sình
hôi thúi, rồi tóc lông, răng móng vung rải khắp nơi. Thân như vậy đó có
gì đáng tiếc, nên siêng năng tu tập chóng cầu giải thoát. Dẫu cho giàu sang như
các vị trời, cuối cùng rồi cũng sẽ bỏ thân. Nhìn bên ngoài tợ như vui sướng,
nhưng trong lòng vạn mối lo toan. Cho nên Đại Trang Nghiêm luận có câu kệ: “Như
người đeo khoá vàng, tuy có thể trói người, nhưng lòng luôn lo sợ, vương vị
cũng như thế ”. Vì bảo vệ cũng khổ, khi mất lại càng ưu sầu. Cũng như nhờ áo
quần ngăn nóng lạnh, thức ăn uống trừ đói khát mà cho là vui, là sung sướng. Đó
là trong khổ đau mà khởi ý niệm sung sướng. A La Hán Tân Đầu Lô thuyết pháp cho
vua Ưu Đà Diên lời kệ:
Vương vị tuy tôn nghiêm
Nhưng luôn đổi, chẳng bền
Nhanh chóng như tia chớp
Chớp mắt liền hoại diệt,
Vương vị cực giàu sang
Kẻ ngu lòng đắm trước
Bổng đâu bị huỷ hoại
Đau khổ hơn kẻ hèn
Vua chúa ngự vị cao
Danh tiếng vang khắp chốn
Thân đoan chính đáng ưa
Trang sức nhiều báu vật
Cũng như người sắp chết
Đeo vòng hoa, chuỗi báu
Mạng sống chẳng còn lâu
Vương vị cũng như vậy
Làm vua giống như chim
Trong lòng luôn sợ hãi
Trong mọi lúc mọi nơi
Đi, đứng và nằm ngồi
Dù người thân kẻ sơ
Lòng luôn luôn nghi sợ
Quan, dân, hoàng hậu,
phi
Ngựa xe và châu báu
Đất nước và tất cả
Đều là vật của vua,
Một khi vua xả mạng
Bỏ hết chẳng đem theo.
Tôn giả lại
nói:
Đại Vương ! Ngài nên quán sát
thật kỹ, đâu có năm dục nào mà thường còn, đâu có vương vị nào mà bền lâu, đâu
có cõi nước nào mà không biến diệt, đâu có báu vật nào không lưu tán, đâu có
dục lạc nào mà thường còn không mất, đâu có cuộc hội họp nào mà không ly tán !
Thể tính của năm dục là khổ, đều từ vọng tưởng mà sinh vui, cho nên vương vị
cũng khổ, không có gì an . Như cảnh thấy trong mộng, thức dậy thấy không
thật, vì thế người trí khởi tâm nhàm chán, liền biết được các pháp trong ngoài
thay đổi, đều thuộc vô thường. Tuy thô tế khác nhau, nhưng đều không dừng trụ
trong từng sát na, điều này thì không sai biệt cho nên kinh ghi: “Sắc khổ có 10
giai đoạn, từ khi hình thành bào thai cho đến già chết: mô, bào, pháo, hòn
thịt, có chi thể, bé mới sinh, nhi đồng, thiếu niên, tráng niên, già suy ! Nếu
không có các giai đoạn vô thường này, thì đâu có tiến trình từ bào thai đến già
chết ? Do lửa mạnh ba độc liên tục đốt tâm cho nên mới có các khổ này.
Kinh Niết bàn có bài kệ:
Tất cả các thế gian
Hể sanh thì phải chết
Dù thọ mạng vô lượng
Cũng có ngày chấm dứt
Đã thạnh ắt có suy
Hội họp rồi biệt ly
Thời tráng niên ngắn ngủi
Sức mạnh, bệnh làm suy
Mạng bị chết ăn nuốt
Không pháp nào mãi còn
Đế vương được tự do
Thế lực không ai bằng
Rồi cũng sẽ biến diệt
Thọ mạng cũng như thế
Các khổ luôn lưu chuyển
Mãi mãi không dừng nghỉ
Ba cõi đều vô thường
Các hữu có gì vui ?
Tính tướng pháp hữu vi
Tất cả đều rỗng không
Pháp biến hoại lưu chuyển
Thường có những nỗi lo
Sợ hãi và tội lỗi,
Già, bệnh, chết, sầu lo.
Tất cả đều không cùng.
Dễ hoại, oán thù xâm
Phiền não luôn trói buộc
Giống như tằm trong kén
Tại sao người có trí
Lại ưa thích chốn này
Thân này khổ nhóm họp
Tất cả đều bất tịnh
Ung nhọt...những hiểm nguy
Căn bản không lợi ích
Dù là thân chư thiên
Cũng đều giống như vậy
Các dục đều vô thường
Nên ta không đắm trước
Lìa dục, tư duy sâu
Mà chứng đạo chân thật ./.
& & &
Cõi nhân gian khó làm thiện
dễ làm ác. Làm thiện khó như leo núi, làm ác dễ như xe tụt dốc. Vì thế cung
trời rộng lớn, mà hiếm người lên, địa ngục chật hẹp mà nhiều người tranh vào.
Kẻ làm thiện thì ít, kẻ làm ác thì nhiều, cho nên cảm quả báo ác, mưa nắng, gió
bão thất thường, dịch bệnh liên miên, chiến tranh loạn lạc, bạo động xuất hiện
không nơi nào không có, khiến con người lo âu thấp thỏm, sống không yên chết
không thoát.
---------—]–---------
0 nhận xét:
Đăng nhận xét