CÕI THIÊN
Về cõi thiên có 32 tầng, trong đó
cõi dục có 10, cõi Sắc có 18, cõi Vô Sắc có 4. Đời sống sung túc không thiếu
thốn, không đau bịnh như cõi người. Cõi thiên cũng có cõi cao cõi thấp, tuổi
thọ dài ngắn tuỳ theo phước báo của từng cõi. 32 cõi nhưng có 28 tầng, vì chư
thiên cõi tứ không đã lìa báo thân không có hình sắc, nên không có trụ xứ riêng
biệt, mà trụ xứ ở khắp các cõi Dục và Sắc.
Sức thần thông của cõi thiên: Chư thiên
có 10 năng lực:
1- Bay đến vô hạn, 2/ Bay đi vô hạn, 3/Đi vô
ngại, 4/ Đến vô ngại, 5/ Thân không có da, gân mạch, máu thịt, 6/
Không có các việc đại tiểu tiện bất tịnh, 7/ Thân không mõi mệt, 8/ Thiên nữ
không sinh sản, 9/ Mắt không nháy, 10/ Tuỳ ý muốn thân hình màu xanh,vàng, đỏ
trắng thì thành xanh vàng đỏ trắng.
Lại vó 10 việc khác:1/ Bay đi vô hạn, 2/ Trở về
vô tận, 3/Không trộm cắp, 4/ Không nói đẹp xấu của thân, 5/ Không xâm hại nhau,
6/ Rằng bằng và đều,7/ Tóc màu tía xanh và bóng mượt, dài thướt, 8/Thân xanh
thì tóc cũng xanh, 9/ Muốn thân trắng thì thân liền trắng, 10/Muốn thân đen thì
thân liền đen.
Mua bán đổi chác: Người Diêm Phù Đề dùng tiền bạc, châu báu,
lúa gạo, vải vóc, súc sinh để mua bán đổi chác. Người Cù đà di, thường dùng
trâu dê, châu ma ni mua bán đổi chác.Người phất ba đề thường dùng tiền tài,vải
lụa, ngũ cốc, châu ma ni để mua bán đổi chác. Người Uất đan việt không có việc
mua bán đổi chác, tất cả các vật đều tự nhiên hiện đến theo ý muốn. Chư thiên
cõi dục cũng có việc mua bán đổi chác, nhưng chỉ lấy đó làm vui, không giống
thế gian.
Hôn
phối và sinh con: Ba châu thiên hạ đều có cưới gả, nhưng Uất đơn
việt không có ngã và ngã sở, mỗi khi cành cây rũ xuống thì nam nữ kết hợp, chứ
không có việc cưới gả. Loài rồng và chim cánh vàng cũng có cách thức cưới gả,
đại khái như nhân gian. Chư thiên
cõi dục và Ma vương đều có việc này. Từ tầng trời này trở lên thì không có việc
hôn nhân cưới gả, vì không phân biệt nam nữ.
Người trong bốn châu thiên hạ
khi hành dục thì hai căn giao tiếp, xuất chất bất tịnh. Loài rồng, chim cánh
vàng, a tu la và chư thiên cõi 33 khi hành dục cũng như thế liền có cảm giác
khoái lạc, nhưng chỉ xuất hơi gió, chứ không xuất chất bất tịnh. Chư thiên cõi
Dạ ma vừa nắm tay thì thành dục, chư thiên cõi Đâu Suất vừa nghĩ đến thì thành
dục, chư thiên cõi Hoá lạc nhìn chăm chú vào nhau liền thành dục, chư thiên cõi
Tha hoá Tự Tại nói chuyện với nhau liền thành dục, chư thiên cõi Ma thân vừa
nhìn nhau thì liền thành dục. Lúc ấy đều tất cả có cảm giác khoái lạc. Chư thiên
cõi Dạ ma ôm nhau liền thành dục, chư thiên cõi Đâu Suất nắm tay nhau liền thành
dục, chư thiên cõi Hoá lạc cùng cười nhau liền thành dục.
Thiên nữ cõi Tứ Thiên Vương không dùng
các thức ăn thô xấu, nên không có thai nhi lớn lên, cũng không có việc sinh
con, không có việc ẵm bồng. Các vị trời nam nữ đều có thể sinh con được tại đầu
gối hay chỗ ngủ của thiên nữ, thiên nữ khởi ý niệm: Đây là con ta, thiên nam
cũng nói đây là con ta. Thế là vị tiểu thiên này chỉ có một cha một mẹ. Nếu
sinh tại đầu gối hay chỗ ngủ của thiên nam, thì vị tiểu thiên này chỉ có một
cha và tất cả thê thiếp của vị thiên nam này là mẹ. Cũng có vị tu hành đến chết
mà không khởi dục.
Thức ăn và thức uống: Tất cả chúng sanh nhờ vào 4 loại thức ăn mà
giữ gìn được 4 đại: 1/ Đoàn thực và vi tế thực, 2/ Xúc thực, 3/ Ý tư thực, 4/
Thức thực. Như các loại cơm đậu, thịt cá v.v.. mà người Diêm phù đề ăn gọi là
đoàn thực, chà xát, tắm rửa, thoa dầu... là vi tế thực. Người trong bốn thiên
hạ và chư thiên cõi Dục đều dùng đoàn thực và vi tế thực. Chư thiên
cõi Sắc và cõi Vô Sắc lấy thiền duyệt và pháp hỷ làm thức ăn, không có đoàn
thực và vi tế thực.
Các loại chúng sanh,sinh từ trứng đều lấy xúc
chạm làm thức ăn. Các loài chúng sinh nhờ ý tư thẩm tẩm để nuôi lớn các căn,
như cá , ba ba, rắn, cóc nhái, và những chúng sinh dùng ý thức tư duy để
tăng trưởng các căn, kéo dài thọ mạng, đều dùng ý tư làm thức ăn. Các loài
chúng sinh ở địa ngục và chư thiên, cõi Thức vô biên xứ đều nhờ thức giữ gìn
thọ mạng.
Chư thiên cõi Dục đều dùng vị Tu đà, buổi
sáng ăn một nắm, buổi chiều ăn một nắm, thức ăn vừa vào bụng liền chuyển khắp
thân. Vị Tu đà này tự nhiên sanh tại các vườn rừng, ao hồ trên cõi trời, chư
thiên cõi Sắc từ Sơ thiền đến Biến Tịnh thì dùng hỷ làm thức ăn, chư thiên cõi
vô Sắc thì dùng ý nghiệp làm thức ăn.
Tuỳ tùng và vật cưỡi: Chư thiên
cõi Dục thì có hai loại, như có vua tôi, thê thiếp, sang hèn, trên dưới. Hèn
thì hầu hạ sang, dưới phục vụ trên. Cõi Dục có các loại súc sinh, khi chư thiên
muốn đi thì tuỳ tiện lấy cưỡi, hoặc là voi ngựa, hoặc khổng tước, hoặc là
rồng...
Từ cõi Đao lợi trở xuống thì có voi ngựa,
vịt trời, nhạn, uyên ương, khổng tước, rồng. Từ cõi Diêm ma trở lên không có
loài 4 chân như voi ngựa...chỉ có loài chim Giáo phóng dật, chim Nói thật, chim
Xích thuỷ...để quở trách chư thiên, răn tâm buông lung.
Tuy không có voi ngựa, nhưng khi chư
thiên cần, do phúc lực nên các con vật ấy tuỳ tâm hoá hiện, tuỳ ý sử dụng, xong
việc thì cũng biến mất. Các loài chim Giáo phóng dật...có khắp cõi trời Dục,
thường làm thầy quở trách tâm buông lung của chư thiên, không chỉ từ cõi Diêm
ma trở lên mới có.
Tại sao chim là loài súc sanh mà có thể làm
thầy chư thiên được ?
Theo kinh Chánh Pháp Niệm, nói rằng: những chim
này, đời trước khi còn làm người đã làm thầy, giáo hoá khắp ba thiên hạ. Còn
chư thiên là những chúng sanh được gióa hoá. Do tin mà nhận lời dạy mà
thật hành bố thí, trì giới, nên chúng sanh ấy được sanh về cõi trời. Còn vị
thầy kia, vì danh lợi nên phá giới, tâm không chân thật, sau khi chết, do chút
thiện căn giáo hoá, nên được sanh vào cõi trời làm chim. Do xưa làm thầy, nên
nay cũng làm thầy chư thiên. Nếu thấy vị trời nào buông lung liền đến quở
trách, vị trời ấy nghe, trong lòng hổ thẹn, không còn buông lung.
Sang hèn, giàu nghèo: Chư thiên
sáu tầng trời cõi Dục đều có sang hèn. Cõi Sắc chỉ trong Sơ thiền có phân biệt
sang hèn. Như trời Đại phạm là vua, trời Phạm phụ là quan, trời Phạm chúng là
dân. Từ cõi trời này trở lên, chư thiên thọ phước đồng nhau, không có sang hèn.
Từ cõi Diêm ma lên đến hết
cõi Sắc, chư thiên phước báo đồng nhau, không phân biệt nghèo giàu. Từ cõi Đao
lợi trở xuống thì có nghèo giàu sai biệt. Vị trời nào phước dày thì thọ hưởng
quả báo dư dật, nếu phước báo mỏng thì dủ có y phục và cung điện bảy báu, nhưng
ăn uống thường không no đủ.
Tống tán: Từ cõi trời Tứ Thiên Vương cho đến
trời A -ca-Ni-Trá, nếu chư thiên qua đời, cũng không cần chôn, không cần thiêu,
không phải ném ngoài rừng. Vì chư thiên qua đời cũng như ánh sáng tắt, không có
thi hài, vì hoá sinh vậy. Có bài tụng rằng:
Ba cõi mênh mang
Sáu đường mờ mịt
Qua lại không dừng
Chịu khổ vô kể
Quả báo buộc chặt
Thống khổ khắp thân
Thật do nghiệp ác
Rước nguy vong này
Chưa bị chìm đắm
Đâu biết thuyền bè
Không mang gánh nặng
Nào biết nhẹ bay
Nguyện thoát Ta bà
Dạo chơi cõi Tịnh
Nhất tâm chánh đạo
Thọ mạng vô cùng.
&&&
Người tu học có 4 kết tập che
tâm không khai ngộ đó là: Dục kết, Sân kết, ngu si kết và lợi dưỡng kết. Có kệ
rằng:
Bia rượu là cửa buông lung
Dâm là cội nguồn sanh tử
Bạc vàng nhân gây hoạ lớn
Tà mạng phá giới từ đây.
Kinh Niết bàn ghi: “Dù được
thân phạm thiên cho đến thân trời phi tưởng phi phi tưởng, thì sau khi mạng
chung cũng rơi vào ba đường xấu ác. Dù được thân Tứ thiên vương cho đến thân
trời Tha Hoá Tự Tại, thì sau khi mạng chung cũng sinh vào loài súc sinh làm
thân sư tử, hoặc tê giác, hoặc cọp sói, hoặc voi ngựa, trâu lừa v.v…
Cho nên biết khi phúc báo cõi
trời hết thì họ vô cùng khổ não. Đã có nạn này thì cần phải chí thành gội rửa,
sám hối diệt trừ. Nếu người tạo tội sau khi thọ báo xong, sau đó tu thiện, dầu
sanh vào cõi trời, nhưng do nghiệp ác còn sót lại, nên vẫn phải chịu tội nhẹ
nơi ấy.
Kinh Chánh Niệm ghi: Vị
trời này, nếu đời trước tạo nghiệp trộm cắp, lúc ấy sẽ thấy các thiên nữ đoạt
lấy các vật trang sức của mình đem dâng cho các vị trời khác. Nếu đời trước tạo
nghiệp nói dối, thì khi nói ra điều gì, các thiên nữ hiểu lầm cho là chửi mắng.
Nếu đời trước cung cấp rượu cho người trì giới uống, hoặc phá giới mà uống
rượu, hoặc gây men rượu, thì khi mạng chung tâm sẽ tán loạn, mất chánh niệm rơi
vào địa ngục. Nếu đời trước tạo nghiệp sát sanh, thì đời nay thọ mạng ngắn
ngủi, chết sớm. Nếu đời trước tạo nghiệp tà dâm thì thấy các thiên nữ lìa bỏ để
đến vui chơi với các vị trời khác. Đó là 5 điềm suy hao. Do trì 5 giới không
trọn vẹn, nên bị lưới nghiệp trói buộc phải chịu các quả báo như thế.
Lại nữa, trời Đế Thích ngồi
trong điện đường quán nghiệp quả, thấy những kẻ tạo nghiệp sát sanh, trộm cắp,
tà dâm, vọng ngữ rơi vào 18 địa ngục nhỏ trong địa ngục Kêu gào, chịu đủ các
nỗi thống khổ, khi hết tội địa ngục, họ sinh vào loài ngạ quỷ, thọ mạng rất dài
lâu, chịu hết tội trong loài ngạ quỷ, họ lại rơi vào súc sanh, giết hại lẫn
nhau, khi hết tội trong loài súc sanh, họ mới được làm người, nhưng phải chịu
thân hình xấu xí, tiều tuỵ, không có uy đức. Nếu còn chút phúc thừa nào mà sanh
được vào cõi trời thì thân lượng hình mạo đều rất tệ, thua kém các vị trời
khác, vật báu trang sức phát ánh sáng rất yếu ớt, các thiên nữ đã không thương
kính mà còn phản bội, xa lánh, tìm đến các vị trời khác. Họ còn phải chịu thiếu
kém trí tuệ, tâm không ngay thẳng, bị các vị trời khác cười chê. Nếu gặp lúc
thiên chúng đánh nhau với a-tu-la vì dư nghiệp sát, nên họ lại bị a-tu-la giết
chết.
Hết
phúc trời: Khi trời sắp mạng chung có hai loại
5 tướng suy hiện ra.
a/ Tiểu ngũ suy:
1/ Khi sắp mạng chung
thì không còn phát ra âm thanh hay nữa, hoặc phát ra âm thanh không vừa ý.
2/ Khi sắp mạng chung
ánh sáng rất mờ tối, hoặc tắt hẳn, khiến thân lại có bóng.
3/ Khi sắp mạng chung thì
nước bám dính thân.
4/Khi sắp mạng chung thì tâm
chỉ chuyên chú vào một cảnh trong khoảng thời gian lâu mà không rời.
5/ Khi sắp mệnh chung thì sức
lực suy giảm, mắt nháy liên tục.
b/ Đại ngũ suy:
- Y
phục mặc trên thân vốn sạch nay lại cấu bẩn.
- Hoa
trên mũ vốn tươi đẹp, nay lại héo,
- Hai
nách bỗng nhiên toát mồ hôi
- Toàn
thân bỗng nhiên có mồ hôi
- Không
thích ngồi trên toà của mình.
Khi năm tướng suy hiện, nếu biết có
thể xoay chuyển được. Như có lần trời Đế Thích thấy 5 tướng tiểu suy xuất hiện
biết rằng không bao lâu sẽ có 5 tướng đại suy. Trong lòng vô cùng sợ hãi, ông
suy nghĩ: “Ai có thể cứu ta thoát tai ách này thì ta sẽ quy y ”. Rồi liền tự
nghĩ rằng, ngoài Thế Tôn ra, không ai có thể cứu ta được. Thế là Đế Thích đến
khẩn cầu Đức Phật từ bi cứu hộ. Đức Phật thuyết pháp, Đế Thích nghe xong đạt
được Kiến đế (tương đương với quả dự lưu trở lên) năm tướng suy kia bỗng nhiên
biến mất. Đế Thích quỳ trước Phật, lòng vô cùng vui mừng, dùng ngôn từ hoà ái
thuyết kệ:
Đại Tiên ! Ngài biết chăng ?
Con ngay nơi toà này
Được lại thọ mạng trời
Xin Thế Tôn nhớ nghĩ .
Ngày xưa, trên cung Đao Lợi có một
vị trời sắp hết thọ mạng, bảy tướng suy hiện ra. Vị này biết mình sau khi chết
sẽ gá sinh làm heo trong bụng heo nái cùi hủi ở nước Cưu -di-na-kiệt. Vì thế vị
này vô cùng buồn khổ, không biết tính thế nào. Bấy giờ các vị trời khác bảo.
“Đức Phật đang thuyết pháp cho đại chúng nơi đây. Chỉ có Đức Phật mới cứu được
tội của ông. Vị trời nghe vậy liền đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ, chưa kịp
hỏi, Đức Phật đã biết nên dạy:
Vạn vật đều trở về vô thường, ông vốn đã biết sao còn
lo buồn ? Muốn thoát thân heo, mỗi ngày nên ba thời siêng năng tụng tam tự quy
! Vị trời vâng lời phật dạy, thực hành đúng như vậy. Bảy ngày sau, vị
trời này mạng chung, sinh làm con của một trưởng giả ở nước Duy -da--di. Trong
thai mẹ, thai nhi này cũng tụng tam tự quy, vừa sinh ra liền quỳ tụng tam tự
quy. Thân mẹ sinh ra không tuôn chất dơ uế, các người hầu thấy vậy, sợ hãi bỏ
chạy, người mẹ cũng kinh ngạc, cho là yêu quái, nên muốn giết chết. Nhưng người
cha biết là quý tử, nên bảo nuôi dưỡng, chăm sóc cẩn thận.
Vào năm 7 tuổi, một hôm đứa
bé đang vui chơi cùng đồng bạn bên đường, thì gặp Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền
Liên, đứa bé liền đến đảnh lễ, các thánh đều ngạc nhiên. Đứa bé liền kể lại các
việc trên cõi trời, sau đó thỉnh Phật đến nhà, Đức Phật thuyết kinh, nghe xong
đứa bé cùng với cha mẹ, thân thuộc đều chứng A Duy Việt trí .
Cảm ứng: Duyên 10 ác mạnh, dễ khiến đường tâm mê muội, sức muôn
thiện yếu, khó cảm được tánh linh. Hễ tâm gian hằng khởi, tướng ác mãi bày, thì
chánh pháp cách xa, giáo tiêu, đạo mất. Vì thế, một hơi thở ra không hít vào
thì muôn kiếp mất thân người, một sát na tạm cách thì nghìn đời li biệt. Bởi
tin và huỹ tranh nhau, thiện cùng ác lẫn lộn. Lại nữa, kẻ ngu si chuyên quạt
mạnh ngọn gió tà, người thuần chính luôn gặp gian bức ép. Do đây, Phật pháp
truyền vào Trung Quốc đến nay hơn 600 năm mà đã ba lần huỹ diệt, thật là hoạ
đến chẳng kịp trở tay, tai ương ập xuống thân hình. Từ đó có việc rước lấy quả
báo thiện ác hiện tiền, xuất hiện những điều cảm ứng trước. Đó là Kiến An nhờ
cảm mộng mà hết bịnh* (Kiến An Vương đời Tề, thời Nam Bắc Triều,
Trung Quốc. Vương bị bệnh nhất tâm niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm, một đêm
nọ mộng thấy Bồ Tát tận tay trao thuốc cho uống, nhân đó lành bệnh). Văn Tuyên
do giáng linh mà lành bịnh* (Văn Tuyên đời nhàTề thời nam Bắc Triều, Vương bị
bệnh, ban đêm nằm mộng thấy tượng vàng dùng tay rưới thần dược mà lành bệnh.
Ngô Vương vây chùa thì Xá lợi
phóng ánh sáng. Tề chúa hành hình đao phủ liền gãy từng đoạn. Vũ Văn hại Tăng
thì toàn thân nổi ung nhọt, Thác Bạc phá chùa mà toàn thân tuôn máu mủ. Tôn Hạo
ném tượng vào chỗ dơ mà nam căn đau nhức. Hách Nhiên hung gian bị sét đánh tiêu
đời.
Những điềm hoạ phước, thiện ác hiển hiện xưa
nay được ghi đầy đủ trong các bộ: Tuyên nghiêm kí, Minh Tường Kỳ, Báo Ứng Lục,
Cảm Thông Truyện, Oan Hồn Kỳ, U Minh Lục, Cao Tăng Truyện . .v.v số lượng rất
nhiều, không thể kể hết, kinh sách lưu truyền như nhật nguyệt treo trên hư
không, đủ để mọi người đồng thấy rõ, mà luôn nghi ngờ là mê hoặc người đời sau
sao ? Cho nên kinh ghi hành thiện thì được quả báo thiện, hành ác thì chuốc lấy
quả báo ác.
Kinh Dịch ghi: “Nhà tích chứa điều thiện nhất định để
lại phúc đức cho con cháu mai sau. Nhà chứa điều ác, nhất định để hoạ cho con
cháu mai sau . ”. Như vậy, biết rằng thiện ác báo ứng theo nhau như bóng với
hình, khổ vui chứng nghiệm xưa nay luôn thay đổi.
&&&
0 nhận xét:
Đăng nhận xét