LỜI KHAI THỊ NIỆM PHẬT CỦA HT TRÍ TỊNH
a/ Niệm Phật như thế nào và hạ thủ công phu như thế nào cho đúng ?
1/ Phải niệm cho rõ ràng: Khi ta niệm
Phật, danh hiệu Phật nó huân tập vào trong tâm thức mình. Nếu mình niệm không
rõ ràng thì nó huân tập trại đi rồi, nó huân tập không rõ ràng. Đừng ham niệm
nhiều mà không rõ ràng, phải kỹ. Kỹ đó là tùy theo trí lực của mình. Nếu trí
lực của mình không thể mau được mà mình ham nhiều quá thành nó trại đi. Nếu
niệm trại đi thì về sau nó huân tập trong tâm cũng trại đi đó là cả một vấn đề.
2/
Niệm phải chắc thật: Thế nào là chắc thật ? là tâm ý của mình cùng tiếng
niệm phải khắn với nhau, chỉ một niệm mà thôi. Phải tập luyện như vậy. Tâm ý và
tiếng niệm là một, chứ không có hai, nếu là hai tất nhiên không phải là chắc
thiệt. Trong lúc mình niệm Nam mô A Di Đà Phật, nhưng tâm ý của mình không hiệp
với tiếng thì nó nghĩ việc khác rồi. Dù nó nghĩ rõ hay nghĩ phớt phớt đều có mơ
màng qua một việc khác. Như vậy là tâm không khắn với tiếng. Tâm và tiếng phải
hiệp một, luyện được 10 phút cũng tốt, một phút cũng tốt. Phải tập lắm mới
được, gọi là điều tâm nhiếp ý. Tất cả pháp môn tu đều phải điều tâm nhiếp ý.
Quan trọng nhất là tâm ý, cái tiếng chỉ là trợ mà thôi.
Phải cố gắng nơi hạ thủ công phu bau
đầu phải rõ ràng và chắc thiệt, lúc mới tập không cần nhiều, không cần lâu,
nhưng phải rõ ràng và chắc thiệt, rồi lần lần từ ít qua nhiều, từ thời gian
ngắn qua thời gian dài. Lần lần mới có niệm lực tương tục chấp trì danh hiệu.
Hành giả niệm phật đến mức thuần thục
thì đi cũng niệm, ngồi cũng niệm Phật, làm cái gì cũng thấy niệm phật, bất kỳ
hành động nào cũng niệm Phật. Như vậy gọi là chấp trì danh hiệu, niệm lực tương
tục. Người đó cầm cây chổi quét nhà, chứ thật ra niệm Phật, việc quét nhà không
xen vô được, vì sức niệm nó không cho vô, luôn luôn cái niệm Phật hiện ra. Đó
mới Gọi rằng được chấp trì danh hiệu,
niệm lực tương tục bất đoạn, cũng có thể gọi là nhậm vận niệm Phật.
Chấp trì danh hiệu, niệm lực tương tục như vậy
có thời gian của nó, nếu mình duy trì được, mình giữ được, không cho lui sụt,
qua thời gian khác không biết bao lâu, thình lình nó nhập định, niệm Phật tam
muội, nhất tâm bất loạn. Cái đó mình không cần được không thể muốn được. Mình
muốn được là được niệm lực tương tục, chấp trì danh hiệu mà thôi. Chứ còn nhất
tâm bất loạn thì không có muốn được, vì có ý muốn xen vô thì tâm đâu có nhất
được, không phải là nhất tâm.
Người được chấp trì danh hiệu, nhậm
vận niệm Phật phải trãi qua thời gian không biết bao lâu. Tùy thuộc vào giới
hạnh của người đó thanh tịnh đến từng nào. Giới hạnh rất cần, là phương tiện
giúp cho việc niệm Phật đưa đến nhất tâm rất nhiều lắm. Nếu giới hạnh không
thanh tịnh thì nó ngăn trở lắm rồi, ngăn trở cái được chánh định tam muội.
Chướng ngăn ở nơi định đó, gọi là ngũ cái. Những cái chướng đó sâu hay cạn tùy
theo mỗi người, người có chướng cạn mõng thì vượt qua mau, còn người có chướng
sâu dày vượt qua rất chậm. Phải dày công
luyện tập để được niệm lực tương tục, chấp trì danh hiệu, thì người đó còn phải
xả bỏ tất cả duyên để mà luyện cho được niệm Phật tam muội nhất tâm bất loạn,
vì cảnh duyên xen vô thì cả một vấn đề chướng ngại lắm, nó phá ghê gớm lắm.
Việc giải thoát sanh tử luân hồi để
trở thành hiền thánh là quan trọng nhất của mình, của người tu hành, của người
Phật tử, không có gì quan trọng bằng, cho nên tất cả việc gì khác cũng đều có
thể bỏ hết, không nghĩ đến được cái gì, hư hao cái gì nữa. Bỏ tất cả để luyện
cho thành công nhất tâm bất loạn, niệm phật tam muội.
Khi niệm Phật có định lực rồi thì từ
định đó phát ra sự khinh an, sự khinh an đó gọi là Thiền chi. Khinh an đó nuôi
tâm và nuôi thân hành giả. Nuôi tâm là nuôi tinh thần, còn nuôi thân tất nhiên
thân thể này càng khỏe mạnh hơn là mỗi ngày ăn bằng thức ăn.
Khi được tam muội rồi thì đạo lực tăng, nên
sanh ra các tam muội khác chánh định khác.
Vì vậy được một tam muội thì đưa đến được nhiều tam muội khác, được một
chánh định thì thêm nhiều chánh định khác. Không phải như thế gian thiền, hễ tu
cái nào thì ra cái đó thôi, không sanh được cái khác.
Xuất thế gian thiền định mang đến những kết quả lạ lắm, khi được rồi thì
sẽ sanh ra các thiền khác, các tam muội khác. Bởi vì xuất thế gian tam muội lấy
tâm tánh làm trọng tâm mà không có pháp nào không phải là của tâm tánh chuyển
thể lên, những tam muội chánh định cũng từ tâm tánh chuyển thể lên. Cho nên tam
muội chánh định xuất thế gian chủ chốt của nó là tâm tánh, chứ không chủ chốt ở
ngoại duyên, ngoại cảnh.
Do vậy, các thiền định thế gian khác với tam muội chánh định xuất thế
gian là vì chủ chốt của nó ở ngoại duyên, ngoại cảnh cho nên có chướng ngại, có
hạn định, có ranh giới, tức cái nào ra cái đó, không sanh ra cái khác được.
Niệm Phật phải có tín tâm sâu sắc có ba điều:
1/ Tin lời nói của đức Phật Thích Ca không sai không dối.
2/ Tin có cõi Cực Lạc thế giới, tin có đức Phật A Di Đà, và tin lời dạy
của Phật và thực hành theo để về Cực Lạc thế giới đó là tin Phật và tin pháp.
3/ Tin mình có khả năng làm và thành công việc đó.
Hai phần trước cũng quan trọng, có nhiều người tin Phật và tin pháp môn của Phật dạy, nhưng cứ do dự
không biết mình có làm được hay không. Như vậy là không được rồi, phải tin chắc
mình có khả năng làm thì mình phải có nguyện tha thiết. Mà có nguyện tha thiết
không đòi hỏi công hạnh nhiều hay ít, mức độ nào như phần trên đã nói, người
làm ác cả đời, đến lúc lâm chung chỉ tin và phát nguyện trong 10 niệm, niệm
Phật mà thôi, họ cũng được sanh về Cực Lạc thế giới.
Như vậy, hạnh đó không đòi hỏi phải
đến mức độ nào, mà nó đòi hỏi là phải cho sâu, nguyện cho thiết, có làm là có
được rồi, không cần nhiều ít chi hết, thực hành nhiều thì đạt đến niệm Phật tam
muội, lý niệm Phật tam muội, được tự tại về thế giới Cực Lạc. Hễ người đạt được
kết quả cao như vậy, thì về bên đó ở tầng bậc cao, nghĩa là ở liền vào hàng Bồ
tát nào đó.
Còn nếu người chỉ biết niệm phật, nhưng niệm cũng không nhiều, không
được nhất tâm bất loạn, không có được niệm lực tương tục, cũng không được chấp
trì danh hiệu, không được gì hết. Người đó thường có niệm là được rồi. Nhưng
nguyện phải tha thiết, tin phải sâu chắc, Hai điều đó phải nắm cho vững mới
được, vậy là vẫn được sanh về Cực Lạc thế giới.
Người bình thường làm được như vậy, dù chưa đến trình độ nào mà được
sanh về Cực Lạc thế giới cũng được sống chung với các vị nhất sanh bổ xứ Bồ
tát, bất thối Bồ tát, cũng hưởng được thân kim cang bất hoại, cũng được y báo
ăn mặc tự nhiên cho đến cảnh duyên dù không gần phật thiệt, nhưng lúc nào cũng
có hóa thân Phật để mình thân cận. Điều đó trong Quán Vô Lượng Thọ kinh có nói
rõ ràng là ở khắp nơi trong Cực Lạc thế giới luôn luôn có hóa thân Phật không
khác chi Phật thiệt để thuyết pháp cho những người ở bên đó nghe.
Nhưng nói như vậy thì mình đừng có lơ là việc niệm Phật hay không ? Dứt
khoát là không được lơ là. Trường hợp
bất đắc dĩ mới niệm ít mà thôi, chớ mình lơ là việc niệm Phật tất nhiên cái
nguyện và cái tín lâu dần cũng bị phai tàn mà thôi.
Cho nên người tin sâu và nguyện thiết, nhất định phải hành tinh tấn. Và
ngược lại, người có thực hành tinh tấn thì nhất định là tin sâu nguyện thiết.
Còn người không có tin sâu nguyện thiết, dù có hành tinh tấn thì bất quá chỉ
được một thời gian, vì tin không sâu nguyện không thiết sau khoảng một thời
gian việc niệm Phật cũng trở nên lơ là, trở thành thưa thớt, giải đãi lần lần
mà thôi.
Vì vậy niềm tin sâu chắc và nguyện thiết tha phải vững lắm mới được.
Người nào chưa có tin sâu nguyện thiết thì phải có. Người có rồi phải giữ cái
nguyện và niềm tin đó cho bền vững. Còn công hạnh thì tùy theo trường hợp mà
thực hành để tiến bộ. Nhưng người có tin sâu nguyện thiết tha rồi, lúc nào cũng
muốn về Cực Lạc thế giới, đâu có quên Phật được.
Không quên Phật thì nhớ Phật mà nhớ Phật tất nhiên niệm Phật rồi. Người
tha thiết muốn về Cực Lạc thế giới chắc chắn có tin rồi và trong tâm người ấy,
luôn luôn có cảnh Cực Lạc thế giới, vì họ muốn về đó. Có cảnh Cực Lạc thế giới
trong tâm là chi ? là niệm Cực Lạc thế giới rồi, luôn luôn lúc nào cũng niệm
Phật A Di Đà, cho nên không cần phải bảo người tin sâu nguyện thiết mà họ vẫn
niệm.
Phải ghi nhớ kỹ cho mình cũng như khuyên người khác nắm vững hai điều
kiện là tin sâu và nguyện thiết chứ đừng ham niệm Phật cho nhiều, mà hai điều
kia không chắc, thì nhất định không thành công.
*****
Tin Phật rồi, tin cõi Cực Lạc rồi kế đến tin nguyện lực của Phật A Di
Đà. Vì sự lợi ích cho chúng sanh mà đức
Phật Thích Ca nhiều lần khuyên chúng sanh phát nguyện cầu sanh về Cực Lạc, cho
đến 10 phương chư Phật cũng đều đồng khuyên như vậy.
Do đó pháp môn niệm Phật mà đức Phật đã dạy để bảo đãm chẳng những cho hàng
đệ tử Phật mà cho tất cả mọi người, tất cả chúng sanh nếu y theo mà hành trì
thì bảo đãm được gần nhất là thoát ly khỏi ngũ trược ác thế sanh tử luân hồi và
kế đó là bảo đãm việc thành thánh thành Phật tương lai.
---------—]–---------
KỆ NIỆM PHẬT HẠ THỦ CÔNG PHU
Một
câu A Di Đà
Không
gấp cũng không hưỡn
Tâm
tiếng hiệp khắn nhau
Thường
niệm cho rành rõ
Nhiếp
tâm là Định học,
Nhận
rõ chính là Huệ học
Chánh
niệm trừ vọng hoặc
Giới
thể đồng thời đủ,
Niệm
lực được tương tục
Đúng
nghĩa chấp trì danh
Nhất
tâm Phật hiện tiền
Tam
muội sự thành tựu
Đương
niệm tức vô niệm
Niệm
tánh vốn tự không
Tâm
làm Phật là Phật
Chứng
lý Pháp thân hiện
--------—]–---------
“Một
câu A Di Đà
Không
gấp cũng không hưỡn
Tâm
tiếng hiệp khắn nhau
Thường
niệm cho rành rõ ”
Niệm phật muốn thuần
thục thì phải thường niệm, nghĩa là luôn luôn niệm cho được nhiều giờ và thời
gian cho được tương tục nên gọi là THƯỜNG, chứ nếu trong một ngày một đêm chỉ
có niệm một hay hai tiếng còn 22 tiếng kia lại nghĩ việc này việc nọ biết bao
giờ tâm mới thuần thục được.
Phải tập niệm luôn,
lâu ngày thành quen. Nhưng bây giờ bận công việc, đâu có rãnh như những vị cấm
túc hay kiết thất hay tịnh khẩu. Như vậy phải làm sao ? Tất nhiên, đi đứng,
nằm, ngồi, lúc rãnh, lúc bận phải bắt tâm mình niệm Phật, trừ khi nào tâm mình
bắt buộc chú trọng đến những công việc khác, nhưng xong rồi phải nhớ niệm phật
lại. Ví như khi mặc áo cũng niệm Phật được, ăn cơm cũng niệm Phật được, hoặc
lúc nằm nghĩ cũng niệm Phật được… chứ không phải chỉ niệm Phật lúc ở trước bàn
Phật có chuông có mõ. Nếu chỉ có như vậy thì thời gian ít lắm, không thể gọi là
thường làm, và nếu không làm được như vậy thì khó thuần thục, khó thành thói
quen.
Trong một câu niệm
Phật, gồm cả ba môn học Giới, Định, Huệ mà người Phật tử phải thực hành, dù tu
pháp môn nào cũng vậy.
Nhiếp
tâm là Định học
Nhận
rõ chính là Huệ học
Chánh
niệm trừ vọng hoặc
Giới
thể đồng thời đủ,
Khi nhiếp tâm niệm
Phật, không nghĩ việc gì khác, tâm trụ nơi câu Phật hiệu, đó là mình đang thực
tập môn Định học rồi. Kế đến trong lúc niệm Phật tâm và tiếng hiệp khắn nhau,
lại nhận rõ ràng và rành rẻ. Tất nhiên trong lúc đó, tâm sáng nên mới nhận được
rành rẻ và rõ ràng. Cái tâm sáng đó nó tương ưng với Tuệ, đây là môn vô lậu học
thứ hai, gọi là Huệ học, và lúc niệm tâm không có vọng tưởng, tất nhiên không
có những lỗi lầm là tương ưng với GIỚI. Đây là môn vô lậu học thứ ba, gọi là
Giới học.
****
Thế nào gọi là nhất
tâm ? tức là cái tâm chuyên nhất không xen gì hết mới gọi là nhất tâm. Thế nào
gọi là nhất niệm ? tức là cái niệm phải cột lại trong một chỗ mới gọi là nhất
niệm.
---------—]–---------
0 nhận xét:
Đăng nhận xét