CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC
Chánh niệm tỉnh giác là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an
lạc trong đời sống sinh hoạt hằng ngày, với một tâm tư hoàn toàn tỉnh táo và
sáng suốt, biết rõ đối tượng đang tiếp xúc hay thức tỉnh về việc mình đang làm.
Đó là một trạng thái thiền hành được áp dụng trong đời sống thường nhật, thể
hiện qua việc chú tâm nhận biết hay chánh niệm tỉnh giác về hoạt động của thân
thể, hài hoà, thông suốt, vừa khiến cho mọi hoạt động trở nên khoan thai nhịp
nhàng, chuẩn xác. Đây là một trong các phương pháp “quán thân trên thân “được
nói trong kinh điển đạo Phật, nghĩa là chú tâm nhận biết hay quán niệm về các
hoạt động hàng ngày của thân thể, khiến cho tâm trí trở nên định tỉnh, thanh
tịnh, sáng suốt, đạt đến giải thoát và giải thoát tri kiến.
Kinh
Sa Môn quả, Trường bộ nêu định nghĩa: “Đại Vương, thế nào là tỳ kheo chánh niệm
tỉnh giác? Đại vương, ở đây, tỳ kheo khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh
giác, khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác, kho co tay khi duỗi tay đều
tỉnh giác, khi mang y, bình bát, khi ăn, khi uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác.
Khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác. Khi đi đứng, nằm, ngồi, nói năng, yên
lặng v. v… đều tỉnh giác. Như vậy, Đại vương, tỳ kheo chánh niệm tỉnh giác ”
Thông thường chúng ta sống hằng ngày với cái tâm đỗ đầy ký ức và dự tính,
không còn chỗ trống cho một niệm dừng nghỉ hay an trú, chúng ta thường xuyên
cảm thấy căng thẳng và mệt mỏi bởi tâm của chúng ta, đã phải làm việc quá sức
và không hề được nghỉ ngơi. Chúng ta chưa hết suy nghĩ điều này thì tính toan
đến việc kia và do vậy tâm của chúng ta luôn luôn quay cuồng, dao động, không
tĩnh lặng, không đứng yên một chỗ. Nó hết ám ảnh bởi ký ức quá khứ lại bị
thôi thúc bởi vọng tưởng tương lai, và do vậy không an trú trong hiện tại, không
an tịnh không thanh thản, không giải thoát. Hiện tại là cách gọi của một tâm
thức thường xuyên nhận biết và tỉnh thức về các pháp hay hiện tượng đang diễn
tiến mà ý thức hay ngã tưởng không có mặt. Khi chúng ta sống chú tâm nhận
biết hay thức tỉnh về một sự vật hoặc một hiện tượng nào đó mà không để cho ý
thức hay ngã tưởng xen vào làm cho công việc suy tính, ước lượng, phân biệt hay
phán xét thì giây phút ấy được gọi là sống với hiện tại, sống với thực tại hay
sống với những gì đang là. Đây gọi là phương pháp quán niệm trong đạo Phật,
theo đó hành giả Phật giáo thể hiện cuộc sống an lạc giải thoát ngay trong hiện
tại bằng cách an trú tâm trên thực tại chuyển biến của các pháp, thấy rõ chúng
là giả họp, vô thường, vô ngã, khiến cho tâm trở nên quân bình, tỉnh táo sáng
suốt, không phản ứng, không dao động, không bị chi phối bởi các cảm thức đối
cực như có hay không, được hay mất, lạc hay khổ, vui hay buồn, yêu hay ghét...
Chính ở đây không có khổ đau, không có phiền lao, không có ưu não, không có
nhiệt não sinh, vì bấy giờ tâm trí hoàn toàn vắng lặng, tịch tĩnh, không phản
ứng, không tìm cầu, không phân biệt, không dính mắc, không bám víu, không chấp
trước một vật gì trên đời.
Như
vậy, sở dĩ chúng ta rơi vào lo âu, phiền muộn và khổ đau. Ấy là bởi tâm của
chúng ta thường xuyên quay cuồng và dao động bởi các ý niệm phân biệt và vọng
tưởng, không an trú, không an tịnh, không đứng yên một chỗ. Chúng ta bị phiền
muộn và khổ đau chi phối, bởi chúng ta không biết cách an trú tâm, an tịnh tâm,
không biết đưa tâm về với hiện tại, hay không biết cách sống với thực tại.
Chúng ta thở vô ra hay đi đứng nằm ngồi hoặc làm công việc trong mỗi phút giây
và các động tác này, cứ lặp đi lặp lại mãi, nhưng chúng ta không chú tâm nhận
biết hay tỉnh thức về chúng. Chúng ta sống và hoạt động như một cổ máy. Nói
khác đi, chúng ta không sống với thực tại, không sống với những gì đang là, bởi
chúng ta không chú tâm nhận biết hay thức tỉnh về những gì mình đang làm. Chúng
ta hít vô và thở ra và động tác này cứ lặp đi lặp lại hết sức tự nhiên đến độ
chúng ta không cần nỗ lực để thở, không cần chú ý đến nó, không sống với nó. Nó
đến và đi hết sức tự nhiên. Chẳng có gì quan trọng để chú ý đến hơi thở. Đúng như
thế, hơi thở không đẻ ra tiền bạc ! Và chúng ta có nhiều việc quan trọng khác
cần phải làm. Thật hợp lý và hãy tưởng tượng, hàng loạt công việc cấp thiết
đang chờ chúng ta phải giải quyết. Nào là việc này việc nọ v.v.. tất cả cứ ùn
đống khiến chúng ta phải xử lý, nhưng tất cả đều cấp bách và quan trọng đối với
cuộc sống có nhiều tương quan buộc ràng đến độ chúng ta quên mất chính mình,
quên mất chúng ta cần phải thở ! Không, chẳng cần cố gắng để thở, bởi hơi thở
đến và đi hết sức tự nhiên, nhưng cần phải chú ý đến hơi thở, cần thở đều, thở
sao cho khoẻ ! Đạo Phật rất chú trọng đến hơi thở. Nó không bảo cho bạn điều gì
khác ngoài việc kêu gọi bạn chú ý đến hơi thở. Trong đạo Phật, theo dõi hơi thở
đồng nghĩa với việc chăm sóc sức khoẻ cho tự thân, cả về mặt vật lý lẫn tinh
thần. (*) . Trong số các bài pháp của Đức Phật, Ngài dành riêng cho một bài,
kinh nghiệm về hơi thở vô hơi thở ra, để nói về cách thức và lợi ích của việc
chú tâm vào hơi thở. Hơi thở không mang cho ta tiền tài danh vọng nhưng hơi thở
có thể mang lại sức khoẻ và sự minh triết.
(Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc kể
về Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (1913-1997) đã áp dụng phương pháp hít thở để trị
bịnh cho mình. Lúc bác sĩ ngoài 20 tuổi phải cắt phổi chỉ còn 2/3 lá phổi mà
vẫn sống khoẻ để cống hiến chi đời làm bác sĩ cứu người trọn đời đến 84 tuổi ).
Cuộc sống
càng văn minh tiến bộ thì con người càng ít chú ý đến hơi thở, đúng hơn, không
có thời gian dành cho nó. Điều này cũng có nghĩa là con người đang dần dần bỏ
quên chính mình, bỏ quên việc chăm sóc sức khoẻ nội tâm. Hơi thở không
được quan tâm, nhưng thay vào đó, trí óc vận dụng tối đa nhằm đối phó với môi
trường sống ngày càng trở nên phức tạp và thích nghi với nhịp điệu sống ngày
càng tăng nhanh. Thực tế này cho ta thấy con người hiện đại chỉ chú ý phát
triển một phần “con người tự thân “bỏ qua phần còn lại, con người không còn là
con người tổng thể toàn diện mà bị xé mảnh ra và phát triển phiến diện bởi áp
lực và quan niệm thực dụng. Đây phải chăng là nguyên nhân của khủng hoảng ? Hẳn
là những ai cảm thấy trống trải , căng thẳng và mệt mỏi trong lối sống hiện đại
sẽ tìm thấy chỗ đứng thanh thản ở đạo Phật. Bởi ở đây mọi phức tạp thành ra đơn
giản và người ta không cần làm gì thêm cho cái gọi là sống hạnh phúc. Đạo Phật
được biết như là đạo thức tỉnh. Mọi thứ đều có sẵn, chỉ thức tỉnh thôi, không
cần phải làm gì thêm. Đức Phật sau khi trải qua các tìm cầu bên ngoài đã phát
hiện ra sự thật giác ngộ không ở đâu xa mà nằm ngay nơi hơi thở của Ngài, Ngài
liền buông bỏ mọi tìm cầu, mọi ý nghĩ tạo tác, tập trung thức tỉnh về hơi thở
vào ra và cuối cùng đạt đến toàn giác, thực chứng tâm giải thoát, tuệ giải
thoát, không có gì thực tế và giản dị hơn đạo giác ngộ của Ngài, bởi nó đơn
giản chỉ là sự thức tỉnh. Thức tỉnh về cái đã sẵn có, không cần phải tạo thêm cái
gì khác để thức tỉnh hay giác ngộ. Cố nhiên đạo Phật không giúp nhiều cơ hội
cho ta giàu lên về vật chất hay địa vị danh vọng, nhưng nó có khả năng làm cho
con người trở nên tỉnh táo và sáng suốt hơn trong lối sống hàng ngày, giúp con
người nhận ra một giá trị hạnh phúc khác thường bị lãng quên. Đó là sự thanh
thản an lạc của tâm thức biết thức tỉnh về hơi thở hay sự thoát ly mọi lo âu,
căng thẳng, mệt mỏi và khổ đau nhờ quán niệm về các hoạt động của thân thể hay
chánh niệm tỉnh giác về các sinh hoạt thân quen như ăn, mặc, ở, đi đứng, nằm,
ngồi . . .trong đời sống hằng ngày./.
&&&
Biết
là chỉ để mà biết, còn biết để mà ngộ ra một cách thực tế thì không phải ai
cũng làm được.
***
***
“ngoại ly tướng vi thiền, nội bất loạn vi định ”. Nghĩa là ngoài không vướng
mắc hình tướng là thiền, trong (tâm) không loạn là định
***
***.
Học là để vượt qua chính mình, chứ không phải học để hơn người khác.
Học
cho mình, vì mình, do mình, quyền làm nên chính mình.
Không
để xã hội làm ra mình, mà mình làm ra xã
hội.
---------—]–---------
0 nhận xét:
Đăng nhận xét