BỐN TRƯỜNG HỢP CỦA HIỆU LỰC CẦU NGUYỆN
Một thời
Thế Tôn trú tại Nalanda có một vị thôn trưởng Bà la Môn đến gặp Thế Tôn, đảnh
lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi ông trưởng thôn Bà la môn bạch Đức Thế
Tôn:
Những người thờ lửa, khi một người đã
chết, đã mệnh chung, họ nhấc bổng người ấy lên và mang đi ra ngoài, kêu tên vị
ấy lên và dẫn vị ấy vào thiên giới. Còn
Thế Tôn, Bạch Thế Tôn là bậc A La hán, Chánh Đẳng Giác. Thế Tôn có thể làm như
thế nào cho toàn thế giới sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên thiên giới
cõi này được chăng ?
Đức Thế Tôn nói, Này ông trưởng thôn,
ông nghĩ như thế nào ? Ở đây, có một người sát sanh, lấy của không cho, sống
theo tà hạnh trong các dục, nói lời hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lưỡi hai
chiều, nói lời phù phiếm, tham lam, sân hận, theo tà kiến. Sau khi chết, một
nhóm người đông đảo tụ tập lại cầu nguyện, tán dương, chắp tay đi cùng khắp và
nói rằng: Mong người này thân hoại mạng chung sanh lên thiên giới, ông nghĩ như
thế nào, này ông trưởng thôn, người ấy do nhân cầu nguyện của quần chúng, do
tán dương, do chắp tay đi cùng khắp mà người mạng chung kia được sanh lên thiên
giới chăng ?
Trưởng thôn thưa, bạch Thế Tôn không vì
thế mà người kia được sanh thiên giới.
Đức Thế Tôn lại nói tiếp, này ông
trưởng thôn, ví như một tảng đá lớn, đem ném xuống hồ nước sâu, Rồi một nhóm
người đông đảo, tụ tập lại một chổ cùng nhau cầu nguyện, tán dương, chắp tay đi
cùng khắp và nói rằng, Tảng đá hãy nổi lên, hãy nổi lên ! hãy trôi vào bờ ! Ông
ngĩ như thế nào, này ông trưởng thôn tảng đá ấy do nhân cầu nguyện của nhiều
người, do tán dương, hay do chắp tay đi cùng khắp mà tảng đá đó có thể nổi lên
hay trôi dạt vào bờ được không ?
Ông trưởng thôn, bạch Thế Tôn không thể
được.
Đức Thế Tôn lại nói tiếp, Này ông
trưởng thôn, cũng vậy, như có một người không sát sanh, không lấy của không
cho, không tà hạnh trong các dục, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời độc
ác, không nói lời phù phiếm, không tham lam sân hận, không theo tà kiến. Khi
người ấy mạng chung, một nhóm người tụ họp đông đảo cùng nhau cầu nguyện, tán
dương, chắp tay đi cùng khắp và nói rằng, người này sau khi mạng chung sanh vào
ác thú, địa ngục ngạ quỷ súc sanh, đọa vào các cõi xấu ác. Do vì những lời cầu
nguyện ấy, tán dương ấy, chắp tay đi cùng khắp mà người kia sanh vào đọa xứ
chăng ?
Ông trưởng thôn bạch Đức Thế Tôn không
thể được.
Đức Thế Tôn lại nói tiếp, Ví như có một
ghè đựng dầu, người ta đem bỏ xuống hồ nước sâu, rồi đập bể ghè ấy, các mãnh
của ghè bể ra từng miếng chìm xuống đáy ao, còn dầu thì nổi lên. Rồi một nhóm
người đông đảo tụ tập nhau một chổ cùng cầu nguyện, tán dương, chắp tay đi cùng
khắp và nói rằng, này dầu hãy chìm xuống, hãy chìm xuống đáy sâu. Này ông
trưởng thôn ông nghĩ như thế nào ! Do vì cầu nguyện, do vì tán dương, do vì
chắp tay đi cùng khắp của nhiều người mà dầu kia vì thế mà chìm xuống đáy nước
chăng ?
Ông trưởng thôn thưa, bạch Thế Tôn
không thể được.
Đức Thế Tôn lại nói tiếp, có người từ
bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói
lời độc ác, nói lưỡi hai chiều, nói lời phù phiếm, từ bỏ tham lam sân hận, tà
kiến. Khi người ấy mạng chung, nhiều người cùng nhau tụ tập một chổ cầu nguyện,
tán dương, chắp tay đi cùng khắp nói rằng, cầu mong cho người đó đọa vào ác
thú, địa ngục, ngạ quỷ,súc sanh. Do vì cầu nguyện, tán dương, chắp tay đi cùng
khắp của nhiều người mà người mạng chung kia thác sanh vào đọa xứ, ác thú chăng
?
Ông trưởng thôn thưa, bạch Thế Tôn
không thể được.
Khi nghe
những lời Thế Tôn nói như trên, ông trưởng thôn bạch Phật rằng, bạch Thế Tôn,
thật là vi diệu thay bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì đã ngã
xuống, phơi bày những gì đã che kín, chỉ đường cho những người lạc lối, đem ánh
sáng vào bóng tối, để cho những ai có mắt có thể thấy. Cũng vậy chánh pháp đã
được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Bạch Thế Tôn, con xin
quy y Phật quy y Pháp quy y Tăng, mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử cư sĩ từ nay
cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng./
{—]–{
Từ bài kinh trên
có thể rút ra 4 trường hợp như sau:
1/ Người có giới đức thanh tịnh cầu nguyện cho
người có tâm thức thanh tịnh. 2/ Người có giới đức thanh tịnh cầu nguyện cho
người có tâm thức không thanh tịnh. 3/ Người giới đức không thanh tịnh cầu
nguyện cho người có tâm thức không thanh tịnh. 4/ Người giới đức không thanh
tịnh cầu nguyện cho người có tâm không thanh tịnh.
1/ Người có giới đức thanh tịnh cầu nguyện cho người có tâm thức thanh
tịnh. Đây là nguyên
lý cộng hưởng những năng lượng vi diệu.
Một bên là công năng chuyển hóa toàn diện của các bậc tu hành, đầy đủ
giới định huệ, chuyển hóa sạch tập khí, lậu hoặc v.v. Bản tâm sáng rõ như trời
quang mây tạnh, nên đủ sức chiếu soi các nơi tăm tối.
Một bên là tâm thức thiết tha hướng
về cõi sáng, đó là nguyện lực của các bậc thiện tri thức. Bồ tát chư phật trong
mười phương. Do thành tâm quy nguyện nhiệt thành như vậy nên các tập khí, tam
độc không dính mắc vào. Nhờ vậy,nên tạo được năng lực tương tác, cộng hưởng
giao thoa giữa thức thanh tịnh. Nên tác dụng của việc cầu siêu chắc chắn được
thành tựu. Đây cũng là nguyên lý của việc cầu siêu độ trong đạo Phật. Ví dụ
Ngài Xá Lợi Phất cầu nguyện cho trưởng giả Cấp Cô Độc. Đức Phật cầu nguyện cho
vua cha Tịnh Phạn.
2/ Người có giới đức thanh tịnh cầu nguyện cho người có tâm thức không
thanh tịnh. Đó là
những chúng sanh đã bị tập khí phiền não sai sử trong suốt thời gian khi còn
sống. Khi lâm chung bị rơi vào các cảnh giới tối tăm để trả nghiệp. Ví dụ như
trường hợp của Ngài Mục Kiền Liên cầu
nguyện cho mẹ là Thanh Đề.
Trong trường hợp này, phải cần đến năng lực thanh tịnh của
những người có giới đức rất lớn, mới đủ sức tương tác, chuyển hóa phần tâm thức
nhiễm ô do tập khí nhiều đời của người đã tạo nghiệp. Nên Đức Phật dạy Ngài Mục
Kiền Liên phảo nhờ đến công phu tu tập giới định huệ của chư Tăng trong mười
phương mới cứu được người thân.
3/ Người giới đức không thanh tịnh cầu nguyện cho người có tâm thức không
thanh tịnh. Ví dụ
trường hợp của Đề Bà Đạt Đa, vì muốn lấy lòng A Xà Thế, nên vua Tầng Bà Sa La
băng hà, Đề Bà Đạt Đa đến thăm và cầu nguyện, nhưng chỉ là hình thức chứ không
có kết quả gì. Vì lúc đó Đề Bà Đạt Đa thì đầy tham vọng nên tâm hoàn toàn bị ô
nhiễm, còn vua Tầng Ba Ta la sau khi thấy được ác tâm của con mình là A Xà Thế
nên đã có sự chuyển tâm, nhân đó Đức Phật mới chỉ cho nghiệp báo từ nhiều đời
trước. Vua Tầng Bà Sa La từ đó càng chuyên tâm hướng về Tam bảo. Nên sự cầu
nguyện lúc này của Đề Bà Đạt Đa chỉ là hình thức để tranh thủ A Xà Thế, còn kết
quả tốt đẹp chính là do sự chuyển hóa tâm thức mạnh mẽ lúc cận tử của vua Tầng
Bà Sa La
4/ Người giới đức không thanh tịnh
cầu nguyện cho người có tâm không thanh tịnh. Trong trường hợp này, cả người đứng ra cầu nguyện
đều có tâm thức nặng nề chưa được chuyển hóa thanh tịnh, và đối tượng được nhắm
đến cũng đầy những nghiệp quá nặng, thì làm sao sự cầu nguyện có hiệu lực được.
Nên đức Phật trả lời cho vị trưởng thôn bằng đưa ra ví dụ tảng đá ném xuống
nước rồi cầu nguyện cho đá nổi lên. Tảng đá ví như nghiệp dữ mà người đã
tạo.Nghiệp ác thì phải trả quả báo tương ưng, như viên đá nặng thì phải chìm
xuống. Nhưng nghiệp nặng của con người thì có thể chuyển hóa được một khi thức
tỉnh. Do một yếu tố nhân duyên nào đó,khi tâm thức con người được tác động, có
được sự nhận thức liền có sự thay đổi, thì được gọi là chuyển nghiệp. Yếu tố
tác động này chính là gới đức thanh tịnh của người đứng ra cầu nguyện. Nếu
thiếu yếu tố này dù có cầu nguyện cũng không có tác dụng.không có tốt đẹp gì.
Nên khi xét đến vấn đề hiệu lực của cầu
nguyện, chúng ta cần phải xét đầy đủ trên các mối tương quan này.
( Trích Nguyệt san Giác ngộ số
241 -04-2016)
˜—]–™
0 nhận xét:
Đăng nhận xét