Suốt đời ai cũng cần phải có
một chữ “tình” để tồn tại và vươn lên, có những thứ tình thoáng qua nhẹ nhàng
và trôi mất, nhưng có một thứ tình mà đến tận cuối đời người mà vẫn thường ca
tụng và nhắc nhớ mãi về sau. Đó là tình yêu cha mẹ
Tình
yêu thương của cha mẹ bao la và bất
diệt. Tình yêu ấy có ngay từ lúc lọt lòng mẹ, vừa cất tiếng khóc chào đời,
chúng ta đã cảm nhận ân đức sâu dày của cha mẹ đã tác thành và yêu thương mình.
Chúng ta ngưng khóc khi có bàn tay ấm áp của cha mẹ vỗ về an ủi. Cũng chính
tình yêu thương đó đã làm nền tảng đạo đức xây dựng cho ta lớn lên thành người.
Tình cha ấm áp như vầng thái dương,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy
ra.
Đây là một ân huệ cao quý nhất mà cuộc đời đã
trao tặng cho chúng ta, hãy trân trọng,
quý báu ngay còn sống bên cha mẹ. Rồi mai đây, một ngày nào đó, tôi cùng quý
vị, mọi người ai cũng có lúc xa cha mẹ, thì có lẽ nào chúng ta không quan tâm
và hiếu kính cha mẹ. Dù bạn có thành nhân chi mỹ, đứng trên danh lợi cao tột
của xã hội mà cha mẹ không còn thì bạn sẽ cảm thấy cuộc đời nầy trống vắng và
thiếu ý nghĩa. Dù bạn có được nhiều người ca ngợi tán dương nhưng cha mẹ không
còn thì cuộc sống của bạn có phần thiếu thốn. Rồi ai cũng vậy, thế thì ngay bây
giờ chúng ta hãy làm tròn bổn phận của người con hiếu thảo, để rồi một ngày nào
đó vô thường đến phải xa cha mẹ chúng ta không cảm thấy ăn năn hối hận và bớt
đi sự xót xa.
Hơn thế, sự báo hiếu
không chỉ dừng lại trong đời này, mà cha mẹ ở trong vô lượng kiếp quá khứ nữa.
Cho nên chỉ có con đường duy nhất là làm theo lời phật dạy, tu tập giải thoát
ra khỏi luân hồi, chúng ta mới có cơ hội báo đáp được thâm ân của cha mẹ trong
muôn một.
Vì thế có nhiều thứ hiếu
trong cuộc sống hằng ngày mà ta đang và sẽ tiếp cận như : Hiếu dưỡng, hiếu
kính, hiếu đạo, hiếu thuận, hiếu thảo, hiếu nghĩa, hiếu hoà, hiếu trung, hiếu
để, hiếu học, hiếu khách. . . .
Nhân mùa Vu Lan chúc các
người con làm tròn chữ hiếu, chúc các người cha người mẹ hiện còn sức khoẻ,
nuôi con tốt dạy con ngoan. Cầu nguyện những người cha người mẹ đã quá vãng
siêu sanh tịnh độ.
Công cha nghĩa mẹ rất cao
dày, đã lo cho con từ trong bụng mẹ, cho nên ca dao VN có câu : “ Đặt con vô dạ
mạ đi tu ”. Khi mang thai con vào lòng, người mẹ không còn ham chơi, vui đùa
như khi còn trẻ, phải kiên cử đủ thứ, đi đứng nằm ngồi người mẹ phải nhẹ nhàng
khoan thai . . Mọi hành động nói năn, ăn uống, suy nghĩ, vui buồn đều ảnh hưởng
đến thai nhi. Vì thế thời gian mang thai người mẹ không những tu thân mà còn
phải tu tâm. Không làm những việc nặng nhọc, không buồn lo đau khổ, mà phải
sống vui vẻ lạc quan thì đứa con sinh ra mới khoẻ mạnh và ngoan hiền. Ca dao VN
cũng có câu : “ Cơm sôi bớt lửa, người chửa bớt lời ”. Chứng tỏ rằng sự hạn chế
về thân, về tâm của người mẹ trong khi mang thai rất cao độ mới bảo toàn được
đứa bé. Cho nên Phật nói mẹ sinh ra thân ta được an toàn là một phước đức lắm
vậy.
Ngày nay, người ta quan
tâm thai dưỡng, mà ít quan tâm đến thai giáo như ngày xưa. Do những yếu tố chủ
quan và khách quan tác động mà ngày nay có nhiều đứa trẻ béo phì, trầm cảm,
hung hăng tiềm ẩn mầm mống bạo lực về tệ nạn.
Vì thế muốn có người con
có hiếu, ngoan hiền cha mẹ phải biết tu thân, tề gia để làm gương cho con. Đồng
thời cha mẹ hiền là bài học muôn đời cho con cháu. Hiền đức là cội gốc của
phước lành, trong kinh nói :
Điều lành cao tột chẳng
gì bằng hiếu,
Điều cực ác chẳng gì bằng
bất hiếu.
Kinh Nhẫn
Nhục
Thờ cúng trời đất quỷ
thần chẳng bằng hiếu thảo với cha mẹ,
Cha mẹ là hai vị thần
sống cao tột vậy.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương
Trong lịch sử tôn giáo
thế giới, chúng ta không thể tìm thấy một vị giáo chủ nào mà lại dạy đệ tử mình
phải kính trọng cha mẹ ngang hàng với mình:
Gặp đời không có Phật,
nếu biết kính phụng cha mẹ tức là thờ kính Phật vậy (
Kinh Đại Tập )
Trong kinh Báo Ân Phật đã
dạy thâm thiết nhất là hình ảnh của mẹ chín tháng cưu mang, ba năm nhủ bộ,
nhường ráo nằm ướt, nuốt đắng nhả ngọt, thương mến nâng niu, trông nôm , dạy dỗ,.
Được Đức Phật dạy trong kinh qua 10 ân
như sau :
1-
Ân chín tháng 10 ngày mang thai nặng
nhọc khổ sở.
2-
Ân gần ngày sinh nở, mẹ lo lắng bồi
hồi không yên
3-
Ân khi sinh nở, đau đớn , khổ sở vạn
trạng.
4-
Ân sinh con rồi, lo nuôi con ăn đắng
nhã ngọt.
5-
Ân nằm chổ ướt nhường chổ khô con
nằm,
6-
Ân nuôi nấng, bú mớm,
7-
Ân Tắm gội, gặt giũ,
8-
Ân con đi xa lòng mẹ nhớ thương không
nguôi
9-
Ân vì con mà mẹ cam đành làm các việc
ác,
10- Ân mẹ trọn đời yêu thươn.g
con
Quan niệm về chữ hiếu của Trung quốc cũng đề
cao công lao của người mẹ bằng chín chữ cù lao. Từ lúc mẹ đẻ ta ra cho đến khi
khôn lớn, chứ không nói cặn kẻ như Đức Phật đã diễn tả trạng thái tâm lý, vật
lý của người mẹ từ khi mang thai đến lúc sanh nở nuôi nấng con cho đến trọn đời,
vì lo cho con mà lòng mẹ theo dõi con như bóng theo với hình.
Trong kinh Thi Đức Khổng nói : “ Phụ hề sanh ngã, mẫu hề cúc ngã, phủ ngã,
súc ngã, trưởng ngã. dục ngã, cố ngã, phục ngã, xuất nhập phúc ngã.”
( Cha vậy sanh ta, mẹ vậy cho ta, bú , ẳm , nuôi,
giữ, dạy, trông nom, săn sóc, ra vào nâng niu ta, người đời gọi chín chữ cù
lao.
Mỗi người có mỗi hoàn cảnh khác nhau nhưng tất cả đều có chung một hạnh
phúc đó là được đắm mình trong bầu trời thương yêu tuyệt vời của tình mẹ.
Mẹ
hiền là người suốt đời đã quên mình vì con, hy sinh tất cả cho con. Đó là bà mẹ
đã chưa một lần đến trường để học chữ nhưng đã biết nuôi con, biết lo cho con
lớn lên trở thành những người có học thức, có địa vị cao trong xã hội. Những
người mẹ quê mùa không biết chữ nhưng giỏi nuôi con thành những người tài đức.
Những người mẹ thức trắng thâu đêm để lo cho con khi con đau ốm, những người mẹ
buôn tảo bán tầng, chịu thương chịu khó để nuôi cho con khôn lớn ăn học trưởng
thành. Dù cực dù khổ mẹ vẫn không hề kêu ca, mẹ vẫn vui khi con khôn lớn nên
người.
Lại
có những bà mẹ vừa có tài vừa có đức sanh thành dưỡng dục con cái trở nên những
con người vĩ đại lưu danh hậu thế. Những người mẹ này họ chú trọng khi còn mang
thai như mẫu thân của Đức Khổng Tử, bà Mạnh Mẫu sinh ngài Mạnh Tử.v. v.. Những
bậc vĩ nhân như thế đều ảnh hưởng sự nuôi dưỡng của người mẹ.
Nhân
loại sung sướng và tự hào khi có những bậc hiền mẫu đã sinh ra những bậc vĩ
nhân như vậy. Tình mẹ muôn đời bất diệt, lòng mẹ dành cho con muôn thuở vẫn vô
biên, bất tận.
Ngày
xưa khoa học chưa phát triển, kinh tế eo hẹp, giao thông không thuận, ngành y
tế chưa phát triển, mọi sinh hoạt đều hạn chế vấn đề nuôi con rất vất vã trăm
bề. Ngày nay khoa học phát triển kinh tế, y tế, giáo dục, giao thông mọi tiện
nghi đều đầy đủ, do đó sự nuôi dưỡng con có phần bớt cơ cực vất vã hơn. Nhưng
ngược lại chính những tiện nghi, tiện dụng của thời đại mới lại sản sinh ra
những người mẹ thiếu bổn phận nuôi con, đánh mất đi cái thiêng chức làm mẹ.
Nhiều người nữ có thai trước tuổi thành niên, trước hôn nhân, ngày càng nhiều
phụ nữ đi nạo phá thai, nhiều người mẹ sau khi sinh nở đem con quăn bờ quăn bụi
v.v.. Từ những phương pháp kế hoạch hoá gia đình, hạn chế sinh đẻ bằng những
biện pháp của khoa học, y học đã gia
tăng cho người nữ nhiều chứng bịnh và tánh hư tật xấu vì trông chờ vào sự can
thiệp của ngành y tế. Và cũng từ những biện pháp xử lý hạn chế sinh đẻ lại sinh
ra những đứa con không lành mạnh về thể xác, ngày ngày có rất nhiều em bé ra
đời với thân thể không tròn vẹn do ảnh hưởng phương pháp trừ phá thai.
Chúng
ta thấy lời dạy của Phật rất lợi ích cho cuộc sống bình thường của con người,
nhưng con người không tin lại cho rằng những người tin Phật là mê tín. Đức Phật
vì cái đau khổ của kiếp nhân sinh, mà Ngài thị hiện ra cõi đời nầy để chỉ cho
chúng sanh biết được cái khổ và đề ra phương pháp diệt khổ, thế mà con người không
tin. Thí như Đức Phật đưa ra năm giới cấm cho người tại gia hành trì, tức là sự
bảo vệ hạnh phúc cho con người và đem lại an ninh trật tự cho xã hội. Phần đông
các gia đình VN nói riêng toàn thế giới nói chung, đều mất hạnh phúc bắt nguồn
từ hai giới tà dâm và rượu chè cờ bạc mà ra.
Mong
rằng những người nào đàn ông, hay đàn bà muốn có hạnh phúc cho gia đình mình,
cho xã hội thì nên thực hành hai giới cấm phật đã dạy là tà dâm và rượu chè, cờ
bạc. Hai giới này không những bảo vệ bản thân mình, hạnh phúc gia đình mình mà
còn góp phần xây dựng an ninh trật tự xã hội một cách thiết thực. Hằng ngày
không biết mấy vụ tai nạn giao thông, đánh lộn, cướp giựt xảy ra đều phát nguồn
từ say rượu, cờ bạc và hút sách mà ra.
Vậy
muốn một có một gia đình hạnh phúc, một xã hội an vui trật tự, người tin Phật,
người làm theo lời Phật dạy, thì cực lạc trần gian sẽ hiện tiền, và dâu hiền rể hiếu, cháu ngoan không cầu mà có, của cải
không lo mà dư, nhà nhà ban đêm ban ngày không then cài khoá chốt mà không mất
của. Cha mẹ, vợ, chồng không thức trắng đêm mà chờ . . .
Người con, người chồng đi uống
rượu, đánh bạc chưa về. Vợ con chờ cơm bắt nguội mà chưa thấy người chồng,
người cha về cùng ăn . .. Những vụ đánh
nhau vì ghen tuôn, những vụ ly dị càng ít đi. Những trẻ em lang thang đầu đường
xó chợ cũng ít đi v.v... Nếu mọi người biết tuân giữ hai giới tà dâm và rượu
chè.
Muốn
làm tròn đạo nghĩa vợ chồng. con cái trong gia đình mọi người nên thực hành
luân lý đạo đức. Nói đạo đức tức là thực hành giới đức, có giới mới phát sinh
ra đức. Giới là sự ngăn ngừa hành vi sai quấy con người, giới bảo vệ sức khỏe
và tinh thần con người được lành mạnh trong sáng. Giới không phải sự ràng buộc
mà là sự tự do, vì sao thế ? Vì người không làm những việc xấu, không vi phạm
pháp luật thì được mọi người kính trọng tin cậy, ngược lại người thiếu giới đức
thì không ai tin cậy là người thiếu tự do. Mà người được trọng dụng tin cậy là
người có khả năng báo hiếu đền ơn và làm việc lợi ích cho nhiều người. Người
như thế là người có hiếu, người biết đền ơn nhớ ơn.
òòòò
Trong các tôn giáo trên thế giới chúng ta chưa thấy một giáo chủ nào mà
khuyên dạy đệ tử mình một cách tỷ mĩ và khoa học như Đức Phật. Đức Phật được
tôn xưng là bậc “ nhất thiết trí ” là
người có trí biết tất cả pháp, không có việc gì không biết, biết một cách rành
rẻ sự việc như trái cam trên bàn tay, dù việc đó ở xa hàng bao nhiêu cây số,
hay việc đã qua lâu rồi, hoặc việc sẽ đến thời gian trăm năm, ngàn năm đến. Đức
Phật nói đã như vậy, sẽ như vậy không sai. Vì thế đạo Phật không những đi trước
khoa học mà còn vượt trên khoa học, Vì sao thế, vì khoa học chỉ khảo sát trên
hiện tượng giới, chứ không thể tìm hiểu được gì trong nguồn tâm thức của con
người. Sau đây kinh Vu Lan, kinh Báo Ân sẽ cho ta thấy điều đó .
Trong
kinh Báo Ân Phật kể mười ân khó nhọc khi người mẹ mang thai, sinh nở cho đến
nuôi con, lo cho con trọn đời. Trong đó Phật nói ân cưu mang đứa con trong
bụng, từ khi bắt đầu cho đến sanh ra, Phật mô tả sự hình thành của một thai nhi
trong 10 tháng, qua mười giai đoạn: Trong 10 tháng mang thai này Phật nói tâm
lý của người mẹ thật khổ sở cùng cực mới sanh được ta.
1-
Thai tháng thứ nhất như sương trên
ngọn cỏ.
2-
Thai tháng thứ nhì như váng sữa.
3-
Thai tháng thứ ba như cục huyết đọng
4-
Thai tháng thứ tư hơi thành hình
5-
Thai tháng thứ năm mới có đầu và hai
chân , hai tay,
6-
Thai tháng thứ sáu mới có 6 giác
quan:mắt,tai, mũi, lưỡi và ý mới khai tượng
7-
Thai tháng thứ bảy gân cốt, lông da
mới đủ,
8-
Thai tháng thứ tám đủ lục phủ ngũ
tạng
9-
Thai tháng thứ chín mới thành đứa bé
hấp thụ nguyên khí của mẹ mà sống.
10-
Thai tháng thứ mười mới bắt đầu sanh.
Đến khi sanh nếu đứa bé
sanh xuôi thì đỡ bị tổn thương người mẹ, còn đứa bé sanh ngược nó cào cấu tâm can, phá đạp thai bào làm cho người
mẹ phải đau đớn vạn trạng. Cho nên sanh được thân nầy là may mắn phước đức lắm
vậy.
Các
nước trên thế giới, nước nào cũng có công nhận công lao của người phụ nữ về vấn
đề sinh đẻ, nuôi con. Nhưng chưa nước nào có một sự khuyên dạy kỷ càng như Phật
phải biết ơn nhớ ân người mẹ như Phật dạy. Nếu mọi người biết ơn nhớ ơn người
phụ nữ, thì giới đàn ông không coi thường giới nữ, để đến nổi xem giới nữ như
một công cụ để người nam sai khiến, phục vụ. Từ cái thành kiến trọng nam kinh
nữ mà người đàn ông xưa và nay họ dành quyền gia trưởng, người nữ phải thủ phận
không dám kêu ca. Nhiều người nam bất tài vô dụng mà người nữ phải suốt đời
trung thành phục vụ, dù bị đánh bị đày cũng cam lòng chịu không dám lên tiếng.
Trong
chế độ phong kiến ngày xưa, người nữ chỉ làm nhiệm vụ sinh đẻ và nuôi con, họ
không biết gì về việc ngoài xã hội, không học không tham gia những việc gì
trong xã hội. Tất cả quan chức từ thượng tầng đến hạ tầng cơ sở đều là nam giới
cả. Thời đại ngày nay thì có thay đổi nhưng chưa cân bằng, số nữ giới tham gia
ngoài xã hội trên bộ máy hành chính chưa có nhiều. Trên cả thế giới có khoảng
chừng trên dưới 10 người nữ làm thủ tướng, con số còn khiêm tốn. Nhưng trong
đạo Phật, Phật đã cho thành lập giáo đoàn ni giới có sự hoạt động ngang hàng
với nam giới, có đầy đủ quyền và lợi như nam. Bên nam giới có hoà thượng nam,
thì bên nữ cũng có hoà thượng nữ, bên nam có độ đệ tử thì bên ni giới cũng có
quyền độ đệ tử. Bên nam đăng đàn thuyết pháp, làm chủ một tu viện, v.v thì bên
ni cũng vậy. Bên nam có chứng đắc đến A La hán quả thì bên ni cũng có người
chứng quả như bên nam giới. Để cho ta thấy vấn đề bình đẳng giới trong đạo Phật
rất rõ ràng và công khai từ xưa đến nay. Với tinh thần bình đẳng này Đức Phật
đã cứu khổ cho nữ giới ra khỏi cái thành trì kiên cố mà chưa có ai làm được.Thứ
nữa đức Phật đưa ra năm giới cẩm, trong đó có giới dâm và tà dâm nó cũng đã cứu
thoát cho người nữ ra khỏi cái khổ cái nạn của người đàn ông áp đặt cho đàn bà.
Giới
của Phật chế ra không phải là sự ràng buộc, mà là sự bảo vệ cá nhân mỗi người nam
giới hay nữ giới. Bảo vệ không những cơ thể sức khoẻ mà cả tinh thần, trong đó
có sự lợi ích cá nhân gia đình và xã hội nữa. Người đời không hiểu cho giới
luật Phật là một sự kiềm chế không tự do, ngược lại khi chấp nhận giới luật
Phật chế người đó là kẻ không những tự do mà vượt lên trên cái tự do bình
thường mà con người quan niệm.
—¯–
0 nhận xét:
Đăng nhận xét