Thứ Sáu, 23 tháng 12, 2016

QUAN ĐIỂM NGHIỆP TRONG ĐẠO PHẬT


Nghiệp không phải là cố định. Nó có thể được thay đổi tuỳ theo sự tác động của nhân duyên. Nhân xấu cũng có thể trổ được quả tốt và ngược lại, chứ không nhất thiết là nhân nào quả nấy, hoặc có nhân nhưng không có quả . Cho nên quan niệm của nhà Phật về nghiệp là một quan niệm mới mẻ và đạo đức. Quan niệm  mới mẻ này là một cuộc cách mạng tầng lớp nông nô vốn bị đè nặng bởi bàn tay giai cấp thống trị vin vào quyền lực của thần linh .
Khi nói đến nghiệp là người ta có hàm ý là xấu, là không tốt. Bởi lẽ con người chỉ ý thức sâu sắc về nghiệp, chỉ khi con người rơi vào một hoàn cảnh bi đát đau thương, một hoàn cảnh trái ngang, chua chát,chứ ít ai sung sướng mà có ý thức về nghiệp dù đó là nghiệp Thiện .
Đạo Phật nói nghiệp là bao hàm cả 2 lãnh vực Thiện và ác. Là nghiệp thiện và nghiệp ác. Thường người ta hiểu lầm nói đến nghiệp là nghĩ đến ác. Cho nên trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường nghe người ta thốt lên :'' Ôi nghiệp tôi nặng quá, '' hay '' Âu đó cũng là cái nghiệp của mình ''.  Và khi nói đến nghiệp là người ta nghĩ là một cái gì khó tránh như câu thơ của Nguyễn Du .
                    ''  Đã mang lấy nghiệp vào thân
                     Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa ''.
Có nghĩa đã gây ra nghiệp ác rồi thì không có cách gì thay đổi được. Đây là những tư tưởng cục bộ, phản lại giáo lý Nghiệp của Phật giáo. Mục đích của đạo Phật là giải phóng con người ra khỏi đau khổ từ tâm lý đến vật lý, chứ không phải dẫn con người đến chổ bế tắc đường cùng, là an phận thủ thường .
Nói đến Nghiệp thì ai cũng biết, nhưng để hiểu đúng về Nghiệp thì có lẽ không mấy ai, ngay cả những nhà trí thức, những nhà làm văn hoá vẫn có cái hiểu sai lầm về chữ Nghiệp, như trong cuốn văn hoá Tâm linh, tác giả Nguyễn Đăng Duy đã viết: '' ... Đó là những lẽ sống hay, nhưng cũng có những lẽ sống không hay mà lâu nay là từ Phật giáo. Đó là Định mệnh nghiệp kiếp, đã mang lấy nghiệp vào thân, ''đời là bể khổ'', khiến con người dễ an phận, dễ cam chịu nhẫn nhục, không khuyến khích con người vươn lên sáng tạo ''.
Qua nhận định trên có thể có nhiều người gật gù cho là đúng, nhưng hiểu chữ Nghiệp thuần tuý theo đạo Phật thì chúng ta sẽ có cái  nhìn khác hơn, mới mẻ hơn, tích cực hơn và lạc quan hơn. Sở dĩ chúng tôi nói hiểu chữ Nghiệp theo thuần tuý Phật giáo là vì có nhiều người đánh đồng chữ '' Nghiệp'' với chữ '' Định mệnh '', '' Thiên mệnh'' hay '' Số phận'' '' Tiền định'' của một vài tư tưởng khác, không phải của Phật giáo.
Định mệnh hay tiền định là những mệnh lệnh thiêng liêng nào đó áp đặt lên con người, lên thân phận con người, hay nói cách khác, mỗi người sinh ra trên đời đều bị qui định bởi một hoàn cảnh sống nào đó, do một vị thần linh nào đó định đoạt. Con người hoàn toàn bất lực và thụ động trước hoàn cảnh số phận:  '' Bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới được phần thanh cao''. Con người chủ trương thuyết định mệnh, tin có một năng lực thiêng liêng nào đó mà họ không thể hiểu nổi đã chi phối cuộc đời họ, xuất phát từ ý tưởng này, con người dễ dàng buông xuôi đời mình, mặc cho đời mình ra sao cũng được và cũng từ ý tưởng này, thuyết định mệnh trở thành điểm tựa cho những người thiếu quyết tâm, thiếu nghị lực và thiếu hẳn ý chí. Định mệnh hay tiền định là vậy, còn Nghiệp theo Phật giáo thì sao ?
    '' Nghiệp ''  theo Phật giáo là những hành động có tác ý. Thực ra những hành động không có tác ý không phải không tạo thành nghiệp, nhưng mức độ nghiệp quả của nó rất yếu, có khi không đủ sức để tạo thành nghiệp quả.  Hơn nửa, đạo Phật rất chú trọng đến ý tưởng con người. Theo Phật giáo, ý là quan trọng, ý làm chủ mọi hành động và lời nói của con người, cho nên trong 3 nghiệp, ý nghiệp là nặng nhất. Kinh Pháp cú nói : ''ý hết sức tối cao, ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo tác, nếu với ý thanh tịnh, nói lên hay hành động an lạc bước theo sau như bóng không rời hình; nếu với ý ô nhiễm, nói năng hay hành động, khổ não bước theo sau, như bánh xe đi theo chân con vật kéo xe ''.
Hành động có tác ý rất quan trọng, hoàn cảnh sống của mỗi người đều bị quy định bởi hành động có tác ý của chính mình: '' Là cùng đinh không phải do sinh trưởng, là Bà la môn không phải do sinh trưởng. Do hành động người này là cùng đinh, do hành động người kia là Bà la môn ''.  Theo Phật giáo, trái ngược với quan niệm về '' Thiên mệnh '' ''định mệnh '' hay '' số phận '' của một vài học thuyết khác. Nếu như quan niệm về Thiên mệnh và định mệnh tư duy thần quyền và huyền bí thì quan niệm về nghiệp của Phật giáo mang tư duy nhân quyền và cụ thể. Nếu như thiên mệnh và định mệnh khước bỏ mọi nổ lực và trách nhiệm về hoàn cảnh sống của con người thì nghiệp, theo Phật giáo đã khích lệ họ nổ lực và đặt họ vào những trách nhiệm về hoàn cảnh sống của họ. Hoàn cảnh sống của mỗi người ra sao thì chính mỗi con người phải chịu trách nhiệm về hoàn cảnh sống đó mà không phải đổ lỗi cho bất cứ ai, bất cứ quyền lực nào, một đấng tối cao nào hay một vị thần linh nào. Hoàn cảnh sống của mỗi người ra sao thì do chính mỗi người tự tạo lấy, hoặc là hành động trong quá khứ, hoặc là hành động trong hiện tại. Hành động trong quá khứ có thể là những hành động trong nhiều kiếp trước. Tuy nhiên, cuộc sống của con người trong kiếp hiện tại không hoàn toàn bị quy định bởi kiếp trước, bởi nếu hoàn toàn bị quy định bởi kiếp trước thì người ngu dốt mãi mãi ngu dốt, người hung ác mãi mãi hung ác, người nghèo khổ mãi mãi là nghèo khổ, người nô lệ mãi mãi là nô lệ  sao ?  
Hơn nửa,Nghiệp không phải là cố định. Nó có thể được thay đổi tuỳ theo sự tác động của nhân duyên. Nhân xấu cũng có thể trổ được quả tốt và ngược lại, chứ không nhất thiết là nhân nào quả nấy, hoặc có nhân nhưng không có quả . Cho nên quan niệm của nhà Phật về nghiệp là một quan niệm mới mẻ và đạo đức . Quan niệm mới mẻ này là một cuộc cách mạng tầng lớp nông nô vốn bị đè nặng bởi bàn tay giai cấp thống trị vin vào quyền lực của Thần thánh .
Trở lại thời Đức Phật, ta thấy xã hội Ấn  Độ bấy giờ có 4 giai cấp: Bà la môn, Sát đế lợi, Phệ xá và Thủ đà la . Chính đức Phật là người lên án chế độ ấy và kêu gọi bình đẳng cho con người: '' Là cùng đinh không phải do sinh trưởng, là Bà la môn không phải do sinh trưởng. Do hành động người này là cùng đinh, do hành động người kia là Bà la môn''. Đức Phật nói thêm : '' Người nào đủ trí đức thì người đó tối thắng giữa nhơn thiên ''. Do vậy, bảo rằng Phật giáo nêu lên quan điểm về nghiệp là để an ủi con người, khuyên con người chịu đựng là không đúng. Đành rằng, trong cuộc sống, có những lúc con người rơi vào hoàn cảnh '' lực bất tòng tâm '' thì họ cũng cảm thấy dễ chịu hơn với thuyết nghiệp này. Tuy nhiên, không phải vì những trường hợp cá biệt như vậy mà cho rằng quan điểm về nghiệp của nhà Phật là tiêu cực. Nét chủ đạo trong thuyết nghiệp của nhà Phật luôn khích lệ con người nổ lực vươn lên, chuyển hoá hoàn cảnh, chuyển hóa đời mình, làm cho đời mình ngày một hoàn thiện hơn. Nếu có ai đó vì ý chí yếu kém, không nổ lực hành động để chuyển hoá hoàn cảnh, chuyển hoá đời mình, mà cam chịu đổ lỗi cho nghiệp quá khứ đời trước thì đó là lỗi tại họ, chứ thuyết nghiệp của nhà Phật không dạy họ như thế. Một người nghèo khổ, với sự nổ lực, cần cù làm lụng của họ, cũng có thể trở nên giàu có. Tương tự vậy, một người ít thông minh nhưng với sự chăm chỉ học tập thì anh ta cũng có thể trở nên một người thông minh. Ngược lại, một người giàu có nhưng anh ta suốt ngày chơi bời nhậu nhặt, cờ bạc thì cũng trở nên người nghèo khó, một người sinh ra có bẩm tính thông minh nhưng nếu không chịu học tập, nghiên cứu thì cũng không thể trở nên người tài, người giỏi được .
Vì thế, nghiệp theo Phật giáo ta có thể chuyển hoá được, làm chủ được. Ta chuyển hoá được bằng cách phải nổ lực ý chí mạnh mẻ, phải có sự cố gắng mạnh mẻ, do đó, trong sự báo ứng của nghiệp, sự cố gắng và sự thiếu cố gắng giữ một vai trò chính yếu. Có thể nói, tất cả những thành công đều phải trải qua một sự cố gắng nhất định nào đó, một khi có sự cố gắng thì nghiệp bắt đầu thay đổi. Tuy rằng, có những trường hợp '' lực bất tòng tâm'' như nói ở trên. Ở những trường hợp này, có thể nghiệp nhân quá lớn, có đủ thời gian cho nhân duyên hội tụ để trổ quả, do đó, người thọ loại quả báo này không đủ sức để chuyển nó nữa, vì quá lớn và quá cận kề .
      Do đó, chúng ta phải luôn nổ lực sống hướng thiện khi tuổi còn xuân, khi sức còn khoẻ, đừng bao giờ đợi nước đến chân mới nhảy, như thế thì không kịp. Khi trong tâm có sự bao dung, rộng lượng, nhân từ thì dù nghiệp quả có  đến, sức ảnh hưởng của nó lên cuộc sống của chúng ta không đáng kể. Ngược lại, trong tâm có sự ích kỷ, xấu xa nhỏ mọn thì khi nghiệp quả đến, dù là nghiệp quả nhỏ, cũng tác động lên cuộc sống của chúng ta đáng kể .
Đức Phật ví dụ :cùng một nắm muối, nếu bỏ vào trong một ly nước thì nước trở nên mặn đáng kể, nếu bỏ vào trong một thau nước thì nước mặn tương đối ít hơn, còn nếu bỏ vào một hồ nước thì độ mặn của muối trở nên không đáng kể, nước có thể dùng uống được. Do đó, vấn đề khích lệ con người là phải tạo cho mình một hồ nước bao dung, khoan hoà, rộng lượng và nhân từ. Mỗi người tạo được cho mình một hồ nước khoan dung, rộng lượng, vị tha và nhân từ như thế thì xã hội này sẽ vơi đi nghiệp quả khổ đau, bất hạnh nhiều lắm.
Tóm lại, chữ Nghiệp theo  Phật giáo, là những yếu tố do chính con người tạo ra và dĩ nhiên, con người thừa hưởng, đối với những hành động tốt, hoặc chịu lấy, đối với những hành động xấu, kết quả của nó. Tuy nhiên, con người không hẳn phải gặt hái hết những gì mình đã tạo ra, bởi nghiệp mang tính chất duyên sinh. Vì nghiệp mang tính chất duyên sinh cho nên ở nghiệp ta không thể tìm đâu ra một nguyên lý định tính nào của nghiệp. Con người thay đổi thì nghiệp thay đổi, cho nên Phật giáo bảo tu là chuyển nghiệp là vì vậy .

                                            Hoàn Nguyên  (Nội San Pháp luân PL : 2548 )    

QUAN ĐIỂM NGHIỆP TRONG ĐẠO PHẬT Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét