Vì sao phải thường niệm tri túc ? Tri túc có nghĩa là biết đủ. Nhưng biết thế
nào là đủ ? Kẻ có một trăm thì muốn có một ngàn, kẻ có một ngàn thì muốn có một
vạn, kẻ có một vạn muốn có một muôn . . . Biên giới của đủ là đâu ? Lòng tham
của con người không bao giờ có biên giới. Loài thú có thể lười biếng đi săn khi
đã ăn no. Nhưng con người không bao giờ ngưng được tư tưởng chiếm hữu, dù đã
sống trong điều kiện vật chất vượt quá nhu cầu sống hàng ngày. Trong chữ “dục”
( ham muốn ) có chữ “ khiếm ” có nghĩa là “ thiếu ”. Quả là sâu sắc.
Đối với người có lòng tham dục thì lúc nào
cũng thấy thiếu, nên phải bươn chải theo lòng dục. Muốn ngừng thì cần phải tri túc. Tất cả tầm quan trọng nằm ở
chữ Tri . Nguyễn Công Trứ nói: : “ Tri
túc tiện túc, đãi túc hà thời túc ” . Hễ biết đủ là thấy đủ, chờ cho đủ thì
biết đến khi nào mới biết đủ ? Cái khó nhất là biết đủ. Khi đã biết đủ thì
những cái thêm vào đều là thừa.
Chúng ta quên rằng chúng ta chỉ có thể
đáp ứng được tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân
( 1- Vô thường 2-Tham dục 3- Tri túc
4- Tinh tấn 5-Trí Tuệ 6- Bố thí
7- Trì giới 8- Phát Bồ đề Tâm ).
Mọi nhu cầu bằng cách biết tiết chế chứ không phải bằng cách thỏa mãn nó. Ta không thể nào tiêu trừ một tham vọng bằng
cách làm thỏa mãn nó, Vì tham vọng không bao giờ thấy đủ. Chỉ có tinh thần “Tri
túc ” mới đem lại cho ta sự thanh thản
trong tâm hồn.
Vì sao cần phải “an bần thủ đạo ”.
An bần thủ đạo cũng như người xưa nói
“ an bần lạc đạo ” (yên cùng cảnh nghèo mà vui với đạo ). Nhưng phải có Đạo để
lạc thì mới thấy an trong cảnh bần được. Muốn sống yên vui trong cảnh nghèo thì
phải có một đời sống nội tâm thực sự hoặc phải mang một tâm hồn thuần phát như
người nông dân chân chất. Đối với người tu hành hoặc người đọc sách, trong tâm
phải có sở đắc thì mới có thể yên vui với cảnh nghèo, nếu không thì sự an bần
đó chỉ còn là hình thức. Đó là sự đè nén đầy mặc cảm của những tham vọng không
thành. Có người cho rằng những vị tướng hảo, chùa to, nhà lớn là do phước báo
đời trước ? Như vậy những vị tu ở thâm
sơn cùng cốc, những bậc chân tu khổ hạnh, như thánh Gandhi đều là những người
gánh chịu nghiệp báo ? ở đời, hễ đã nhận một món quà, dù là vật phẩm cúng
dường, là đã thiết lập nên một sự ràng buộc vô hình trong mối quan hệ xả giao.
Món quà càng có giá trị cao, thì sự lệ thuộc càng nhiều, và sự nhiễu loạn của
tâm càng lớn.
Chúng ta thường tỏ thái độ hảnh diện
với những tiện nghi cao cấp đang sử dụng như xe cộ, nhà cửa v.v . . .như là cách để khẳn định mình, mà quên
mất rằng hễ đời sống tinh thần càng hời hợt thì con người Tăng cũng như tục,
càng lo bù đắp và che lấp bằng những thứ trang sức phù phiếm bên ngoài. Người
tu nếu cứ mãi bận lo thù tạc xả giao với các người thí chủ bên ngoài thường
xuyên thì thời gian đâu mà để nghiên cứu hay quán tưởng thiền tư ? Ta có thể
gọi đó là phước báo được chăng ? hay là
họa ? Nói về hảo tướng và hưởng thụ vật chất trần gian có ai bằng đức Phật ? Có
chùa nào đẹp bằng cung vàng, điện ngọc của nhà vua, thế thì tại sao ngài vẫn từ
bỏ cảnh lầu son gác tía để đi tìm chánh pháp ?
Đối với người tu học thì phước báo
phải hiểu là phước báo về mặt tâm linh. Trước mọi phong ba biến động của cuộc
đời mà giữ tâm yên lặng được như mặt nước hồ thu, thì đó mới thật sự là phước
báo .
Trước khi muốn cứu đời, trước khi muốn
hoằng pháp thì chúng ta phải đủ sức mạnh
nội tâm để bước đi một cách cô đơn trong cuộc đời và trong tư tưởng, để nghe ra
tiếng nói của TÂM . Tâm không tĩnh lặng được trước vật còn để vật sai sử thì
lấy gì để bàn về cõi Đạo mênh mông vi diệu của Phật giáo.
Đối với hầu hết chúng ta, tu tập trong
điều kiện khó khăn về vật chất chưa phải là điều hay, nhưng nếu cứ bận tâm mãi
những tiện nghi vật chất thì tự cắt bỏ con đường đi vào cõi Đạo. Cho nên an bần
thủ đạo với một tâm thái ung dung là điều cực khó.
Vì sao phải “ Duy tuệ thị nghiệp ” ?
Toàn bộ tư tưởng của Phật giáo đều
được thiết lập trên hai yếu tố là Trí và Bi. Đã theo chân Phật dù là tại gia
hay xuất gia, đều phải tìm cầu giải thoát. Mà giải thoát chỉ có thể tìm thấy
trong ánh sáng của Tuệ giác, chứ không phải trong việc tích lũy kiến thức hay
công đức. Không cần phải đem thân gởi chốn am mây mới gọi là Tu , mà hễ một khi
Tuệ kiếm vung lên là trần duyên đứt đoạn, để mở đường đi vào cõi giác. Cùng
đích của đạo Phật dù với vô vàng phương tiện thiện xảo hay với với vô lượng
pháp môn tu học, cũng chỉ nổ lực khai mở được con mắt Tuệ giác của chúng sanh.
Người ta thường có thói quen đánh giá
các tu sỉ qua ngôi chùa họ đang cư trú, làm như ngôi chùa là nơi đảm bảo cho
trí tuệ hay công phu đạo hạnh ? Cách đánh giá đó đã vô tình biến tư tưởng “ Duy
Tuệ thị nghiệp ” của đạo Phật thành “ Duy Tự thị nghiệp ” ( Lấy cái chùa làm sự
nghiệp ) mất ! Chính trí tuệ đạt từ kinh
điển hay sự thực chứng mới đảm bảo cho sự tồn vong của đạo Phật, dù có trãi qua
muôn ngàn cơn pháp nạn, nhưng hễ một khi hạt giống Tuệ giác còn nẩy mầm thì nó
vẫn phát triển thành khu rừng tư tưởng Phật giáo.
Câu kinh gồm ba mục: “ thường niệm tri
túc, an bần thủ đạo, duy tuệ thị nghiệp ” , nhưng thực ra “ Thường niệm Tri túc
” và “An bần thủ đạo ” là hệ qủa tất yếu của
“ Duy Tuệ thị nghiệp ”. Một khi đã xác định được “ Duy Tuệ thị nghiệp ” thì tự nhiên tâm dần
sẽ tĩnh, sẽ dần bớt đi tham chấp vào của cải trần gian.
Đạo Phật chủ trương thập loại chúng
sanh đều bình đẳng trước Phật pháp, nên luôn luôn mở rộng cửa cho mọi người,
chúng sanh vô lượng , căn cơ vô lượng , nên phải có vô vàng con đường đẫn đến
cửa thiền. Chư pháp, do đó, không thể có hình tướng nhất định mà chư Phật cứ
tùy theo căn cơ để hóa độ chúng sanh.
Không ít người, do không hiểu được những yếu tố sơ đẳng trong
Phật học, cho rằng đạo Phật chỉ đưa con người đến chổ bế tắc! Họ quên rằng có
quá nhiều kẻ trốn vào thiền môn chỉ vì một lý do đơn giản là bị bế tắc khi đối
diện với cõi đời. Bế tắc trong tư tưởng, trong tình cảm, thậm chí trong cơm áo.
Thuở còn tại thế, Đức Phật đã từng cảnh báo có những kẻ quy y theo Phật, gia
nhập Tăng đoàn chỉ để kiếm cơm ! Thuở đó còn vậy, huống gì đến thời mạt pháp
hiện nay. Đối với những kẻ bế tắc đó thì Phật pháp, dù có quảng đại và nhiệm
mầu đến mấy, cũng chỉ là một loại “ cần câu cơm ” giúp cho họ tạm thời ổn định những cơn quậy phá
của cái bao tử rổng, hoặc một loại “ si rô an thần ” giúp họ làm dịu đi những
cơn khủng hoảng thần kinh.
Hàng mấy ngàn năm qua, tinh thần bao
dung của Phật giáo luôn mở rộng bàn tay để đón nhận bao nhiêu bậc lợi căn pháp khí, xả thân cầu
pháp thì đồng thời cũng đón nhận không ít bụi bặm bay vào chốn thiền môn. Xong
một khi tư tưởng “ Duy Tuệ thị nghiệp ” còn sống thì tư tưởng Đức Phật vẫn còn
mãi ngời sáng, và đạo Phật vần mãi mãi tồn tại và phát triển.
( Trích NS Giác Ngộ số 156 - 03- 2009
- Huỳnh Ngọc Chiến )
—¯–
0 nhận xét:
Đăng nhận xét