Tam vô lậu học, là Giới, Định và Tuệ là nền tảng
của việc học Phật. Thực hành tam học một cách tinh chuyên thì chắc chắn có khả
năng đoạn trừ phiền não, sẽ siêu phàm nhập thánh.
1- Giới
học : gọi là giới luật, tức là những nguyên tắc để hành giả tu thân và
điều phục tâm. Những nguyên tắc đạo đức, nhằm giúp hành giả tịnh hoá thân tâm,
dừng chỉ hành động, lời nói và ý nghỉ xấu ác, đồng thời có những việc làm, lời
nói, ý nghĩ thiện lành.
Trong ba môn học Giới, Định, Tuệ được cô đọng và
tóm tắc bằng một bài kệ :
Đừng làm các việc ác - Hãy làm các việc lành
Giữ tâm ý trong sạch - Ấy
là lời Phật dạy.
Bỏ ác làm lành, giữ tâm ý trong sạch tức là đoạn trừ phiền
não. Thực tập trọn vẹn ba điều này gọi là tu Đạo.
Căn bản phiền não của con người là ba độc, tham,
sân, si. Ba độc nầy lấy ý làm chủ, có bài kệ rằng :
Trong các pháp tâm làm chủ
Tâm dẫn đầu tạo đủ mọi duyên
Tâm nhơ tạo nghiệp chẳng hiền
Như xe lăng bánh khổ liền theo sau.
Năm nguyên tắc đạo đức của Phật giáo là, không sát, không
trộm, không dâm, không dối, không rượu chè. Năm nguyên tắc đạo đức này thuộc về
phần ngăn ngừa điều xấu ác, muốn giải thoát chứng quả, cần phải nổ lực thực tập
những điều lành. Làm lành có nghĩa là thay thế 10 điều xấu ác tham lam, sân
giận, si mê, sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, nói dối, nói lời thô ác, nói lưỡi đôi
chìu, bằng những việc làm lành thiện, như quán từ bi, quán bất tịnh, quán nhân duyên,
phóng sanh, bố thí, nói lời chân thật, lời nhu hoà , hỷ xả v.v
2- Định
học : Định còn gọi là thiền định, dùng để điều phục tâm. Tu tập thiền
định giúp cho tâm được an định, ngăn ngừa sự tán loạn của tinh thần. Quả khổ mà
thân tâm của ta cảm thọ là do nghiệp và phiền não kết tập mà ra. Do đó, muốn
giải trừ phiền não, việc trước hết là phải đoạn trừ nhân phiền não. Nguyên nhân
sinh ra nhân khổ, chính là vọng tâm phát sinh trong ý thức. Vọng tâm của chúng
ta, niệm đầu đã diệt niệm sau đã phát sinh liên tục không ngừng nghỉ. Vọng niệm
là phiền não, được diển ra ngay trên ý niệm và hành vi của thân, miệng và ý là
nghiệp. Do phiền não mà tạo nghiệp, vì có nghiệp nên phải chịu khổ, đây là điểm
chính của vòng luân hồi sanh tử. Do đó hành giả học tập và thực hành phương
pháp giải thoát của Phật đà cần phải điều phục tâm mình. Giới là để ngăn ngừa
những hành vi và lời nói xấu ác của thân và miệng, còn định để điều phục và
đoạn trừ những vọng niệm trong tâm, cần phải nương giới tu định, nhân định mới
phát huệ.
3- Huệ
học : Tuệ còn gọi là trí tuệ, trí tuệ này chẳng phải thế trí biện thông
của trí thế gian, mà là đại trí tuệ, trí tuệ vô lậu chứng đắc thông qua định
lực. Trí tuệ phiên âm từ Bát nhã, chỉ tạm phiên âm như thế, chứ chữ trí tuệ
không đủ sức chuyên chở hết hàm ý của từ Bát nhã.
Chân như Phật tính, mọi người ai cũng đều đầy đủ,
song do vọng tưởng che lấp nên mình không thấy được nó, như vàng ở trong quặng,
gương dính đầy bụi, vàng nằm trong quặng, bản chất nó không hao tổn, gương bị
dính bụi, ánh sáng của nó vốn không mất. Nếu đãi bỏ đất cát, lau sạch bụi, bản
chất thuần vàng và ánh sáng của thể gương liền hiển lộ ra. Cũng như thế, chân
tâm của chúng ta bị vọng niệm che lấp từ vô lượng kiếp đến nay, song nếu dùng
định lực lâu dài, quét trừ sạch vọng niệm, phiền não, hướng tâm về chánh niệm
tỉnh giác, lâu ngày chầy tháng, vọng niệm sẽ rơi rụng, chân tâm liền hiển lộ,
đây chính là chứng đắc được “Bát nhã”.
Ba lãnh vực Giới, Định, Tuệ là nền tảng của việc
tu học Phật pháp. Tất cả giáo pháp như Bát chánh đạo, Tứ đế, 12 nhân duyên, Lục
độ v.v của Phật thuyết đều hàm chứa trong đây. Cho nên hành giả học tập và thực
hành Tam vô lậu học, là học tập và thực hành phương pháp giải thoát của Phật
đà, cũng chính là đang thực hành Lục độ Ba La Mật.
Lục độ : Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn
thuộc về Giới. Thiền định thuộc về Định học, còn Trí tuệ thuộc về Tuệ học ./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét