Thứ Sáu, 23 tháng 12, 2016

Ý NGHĨA XUẤT GIA


            1-Tại sao gọi là xuất gia ? Xuất gia tiếng Phạn gọi là Pravrajya. Xuất gia là chỉ cho những người theo Phật giáo, từ bỏ gia đình sống đời phạm hạnh, không màng danh lợi hay dục lạc, chỉ mong cầu giải thoát, họ ở trong rừng hay ở những nơi thanh tịnh, xa rời đời sống thế tục. Ở Ấn Độ thời cổ đại cũng có những đạo sĩ Bà La Môn tu theo hạnh xuất gia, tuy có hình thức tương tự, nhưng chính đức Thích Ca Mâu Ni đã mang lại cho đời sống xuất gia theo đạo Phật một ý nghĩa đầy đủ và thực tiển hơn.
          Kinh Tăng Nhất A Hàm nói : “ Người xuất gia nên giữ bốn lời hoằng nguyện, là người xuất gia học đạo thì phải giữ niềm tin kiên cố, nếu không đủ ý nghĩa như tên gọi này chớ xưng là đệ tử của Đức Thích Ca ”.
     Đệ tử xuất gia phải phát bốn hoằng thệ nguyện :
1-   Nguyện cứu các khổ chúng sanh.
2-   Nguyện trừ các chướng hoặc chúng sanh,
3-   Nguyện đoạn trừ các tà kiến của chúng sanh,
4-   Nguyện độ chúng sanh ra khỏi vòng sanh tử.
      Như thế xuất gia theo nghĩa đạo phật không chỉ để giải thoát cho chính mình mà còn vì lợi ích cho mọi loài chúng sanh. Đã làm người xuất gia thì phải luôn luôn tự kiểm  điểm mình bằng bốn lời hoằng nguyện trên. .
      Dựa vào hạnh nguyện của hành giả, cổ đức chia xuất gia có ba hạng:
          a/ Thân và tâm đều xuất gia : Xuất gia là mỗi cá nhân tự nguyện, không ai và cũng không quyền lực nào có thể buộc một người phải xuất gia. Khi người xuất gia đã rời nhà vào ở trong chùa thì gọi là thân xuất gia, khi người đó tâm không còn hướng ra bên ngoài tham muốn các dục lạc, thú vui của năm dục, không còn màng đến danh lợi được mất, thì đó là tâm xuất. Thân và tâm của một người xuất gia đã đồng nhất, an bần lạc đạo, nên gọi là thân và tâm đều xuất gia. Đây chính là trường hợp lý tưởng nhất đối với một hành giả và cũng là bổn phận của người xuất gia.
          b/ Thân xuất gia mà tâm không xuất gia : Đây là trường hợp của những người gởi thân trong chùa nhưng tâm của họ vẫn còn vọng tưởng, chạy đuổi theo cái vui của năm dục. Người như vậy chỉ xuất gia vì cuộc sống hưởng lạc, vì tiếng thơm để người khác ngưỡng mộ. Đức Phật đã cho biết, vào thời mạt pháp thường thấy nhiều hạng người xuất gia như vậy..
          c/ Tâm xuất gia mà thân không xuất gia: Đây là hình thức xuất gia của các vị thánh hay các vị Bồ Tát. Những vị này hoặc vì sợ lộ hình tướng khiến chúng sanh ngưỡng mộ mà trở nên mê tín, hoặc vì họ không còn chấp vào hình tướng, mà chỉ chú trọng vào việc tu hành thực tiển. Thân của họ không cần ở chùa, nhưng tâm họ không còn ham thích các thú vui của năm dục và cũng không màng danh lợi. Hình thức này rất đặc biệt, người phàm phu không thể thực hành được, vì vậy không thể làm mô phạm cho người xuất gia thông thường.
    Ở đây chỉ đề cập đến hình thức xuất gia lý tưởng nhất, đó là hình thức xuất gia thứ nhất, thân và tâm đều xuất gia..
          2- Xuất gia là trực tiếp đối mặt với sanh tử luân hồi :
          Cái mà chúng ta gọi là “ nhà ” thì các bậc thánh gọi là lao ngục, là ràng buộc. Kinh Niết bàn dạy : “ sống trong nhà thì bị bức bách ràng buộc như lao tù, nó là nhân phát sinh ra các loại phiền não. Người ra khỏi nhà thì thoải mái như hư không, nó là nhân làm tăng trưởng tất cả thiện pháp ”. Sự thể hiện rất rõ của việc xuất gia là việc từ bỏ đời sống trong ngôi nhà thế tục và sống đời sống không nhà, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca sa, dùng tâm thành kính, thọ trì giới luật Phật đã chế. Nhưng đây chỉ mới là nghĩa đen, còn nghĩa bóng của nó là nhờ vào việc thành kính thọ trì giới luật của Phật mà có thể ra khỏi phiền não, ra khỏi nhà năm uẩn, ra khỏi nhà ba cõi, được giải thoát sanh tử luân hồi, chứng đắc giác ngộ, như thế mới gọi là xuất gia đúng nghĩa..
          Kinh Hoa Nghiêm dạy : “ Người đời thường không hiểu biết gì về pháp của người xuất gia, chỉ ham thích cái vui rồi rơi vào sanh tử mà không biết cầu mong thoát khỏi. Còn Bồ Tát thì xả bỏ hết thảy thành quách tài sản, làm người xuất gia cầu mong giác ngộ. Như vậy, xuất gia không phải việc làm tiêu cực, mà ngược lại, chính là việc trực tiếp đối mặt với sanh tử luân hồi, tìm ra con đường giải thoát, gánh vác sứ mệnh cao cả tự độ độ tha, lợi lạc hữu tình, không bao giờ mõi mệt..
3-   Xuất gia là tích cực đối diện với cuộc đời :
     Xuất gia là ra khỏi sự ràng buộc của đời sống gia đình. Khi xưa Đức Thích Ca còn là thái tử, đã thấy được cái khổ sanh già bệnh chết của cuộc đời, thế rồi Ngài quyết tâm từ giả cung vàng điện ngọc vợ đẹp con thơ... để xuất gia tìm cầu chân lý. Trãi qua sáu năm khổ hạnh tìm cầu chân lý, và cuối cùng Ngài tự mình xác định lại con đường của mình và chứng đắc giác ngộ vô thượng Bồ đề. Như vậy xuất gia không phải là một việc dễ làm, lại càng không đơn giản để cả thân và tâm đều cảm nhận được pháp lạc, cho nên xuất gia là việc khó, phải trải qua nhiều công đoạn tu tập thực hành mới thành tựu được, là việc làm của bậc xuất trần thượng sĩ, không phải người có quyền uy hoặc giàu có mà làm được. Xuất gia là ra khỏi ngôi nhà đang bốc cháy của ba cõi, là ra khỏi ngôi nhà luân hồi sanh tử, muốn làm được điều này người xuất gia cần phải chuẩn bị cho mình một chí nguyện vững chải, một tấm lòng thành kính để trau dồi phước huệ, nâng cao tính thiện trong con người, tinh tấn thực hành từ bi hỷ xả để bước vào cảnh giới giác ngộ viên mãn..
          Xuất gia phải tự mình tháo gỡ ràng buộc, dần dần thoát ly biển khổ, xả bỏ danh lợi cám dỗ, chỉ một lòng tầm cầu chân lý giải thoát tối thượng. Xuất gia là việc làm siêu trần thoát tục, luôn luôn phải thức tỉnh nội tâm, tham học  cầu tiến, giải trừ cho được cái khổ sanh già bệnh chết, tiêu trừ cho được mê hoặc, thăng cao quả vị chứng đắc. Làm được như thế thì việc xuất gia mới tích cực đối diện với cuộc đời. Người xuất gia phải luôn luôn tâm niệm rằng, xuất gia là để vượt ra khỏi ngôi nhà phiền não sanh tử, ra khỏi ngôi nhà tà tri tà kiến, ra khỏi ngôi nhà tự tư tự lợi, để rồi hoàn thiện nhân cách, liễu ngộ cuộc đời tạm bợ vô thường, lợi lạc quần sanh. Người xuất gia mỗi khi xuống tóc ( thế phát ) đọc bài kệ rằng : “ Cạo bỏ râu tóc, nên nguyện chúng sanh, xa rời phiền não, rốt ráo thanh tịnh ”. Tỳ Ni Nhựt Dụng nói về năm đức tính của một người xuất gia là : Một là phát tâm xuất gia, vì cảm bội Phật pháp. Hai là huỷ bỏ hình đẹp, vì thích ứng pháp y. Ba là cát ái từ thân, vì không còn thân sơ. Bốn là không kể thân mạng, vì tôn sùng Phật pháp. Năm là chí cầu đại thừa, vì hoá độ chúng sanh..
          Nhiều người quan niệm sai lầm cho rằng chùa chiền là nơi trốn tránh trách nhiệm xã hội hoặc vào chùa thì liền được thanh tịnh giải thoát. Nghỉ như vậy thì quá ư nông cạn. Vào chùa ngoài công việc bửa củi gánh nước, tụng kinh niệm phật hằng ngày, người xuất gia còn phải biết tự câu thúc từng hành vi cử chỉ, từng lời ăn tiếng nói, từng niệm khởi trong tâm, nhất nhất đều phải chấp trì nghiệm ngặt các nguyên tắc của thiền môn. Nếu người không đủ phước báo, thiếu quyết tâm hạ thủ công phu, hoặc không đủ thời gian tu tập và rèn luyện ngay từ đầu thì sẽ dễ dàng thất bại. Khí đó còn nói chi đến chuyện ngồi thiền, tỉnh toạ, kinh hành, nghiên cứu giáo nghĩa, thông thạo kinh điển, thuyết giảng độ sanh. Hoặc có người cho rằng vào chùa là trốn tránh được sự đời, có ngờ đâu trong tâm còn phiền não thì dù ở chùa phiền não lại càng tăng thêm. Có lời cảnh báo cho thấy rằng : “ Khi chưa khoác áo ca sa thì thấy cuộc đời này nhiều chuyện, nhưng khi đã khoác áo ca sa rồi thì chuyện càng nhiều hơn. ”.  Thật ra đây là một bài học hai mặt, khi tâm tịnh thì thế giới tịnh, và khi tâm an thì thế giới an. Khi cái thấy biết của mình đã không đúng thì làm sao mà tịnh, đức hạnh tu tập chưa thuần thì thân làm sao mà an. Nếu không hiểu giáo lý thì dù có xuất gia đi chăng nữa tâm cũng không thể nào thanh tịnh, đó chỉ mới là hình thức thân xuất gia mà tâm không xuất gia. Mặt khác xuất gia là một chí nguyện, như người lập chí cho sự nghiệp của mình mà ra sức tập trung học hỏi trau dồi. Việc xuất gia mang ý nghĩa tiếp tục gánh vác trọng trách của đức Phật, nối tiếp dòng thánh, duy trì huệ mạng. Muốn được như vậy thì xuất gia phải phát tâm dũng mãnh, trên cầu Phật đạo dưới cứu chúng sanh, giúp chúng sanh rời khổ được vui, chứng ngộ chân lý, giải thoát sanh tử luân hồi.
          4. Xuất gia là đại báo hiếu : Nếu bảo rằng chữ hiếu của đời thường là hiếu thuận cha mẹ, phụng dưỡng thì đạo hiếu của người xuất gia còn cao hơn nữa, vì xuất là là một nghĩa cử cao đẹp hơn cả, chứ không như mọi người vẫn tưởng rằng xuất gia là đoạn tuyệt thân bằng quyến thuộc. Đức Phật dạy người xuất gia đoạn trừ có nghĩa là đoạn trừ chấp trước hoặc chấp thủ, nghĩa là không khởi vọng niệm về chấp thủ tình cảm, chứ không phải là đoạn trừ thâm ân cha mẹ, thay vào đó người xuất gia đem cái tình cảm bình thường thăng hoa thành đại từ bi tâm. Nếu đoạn trừ theo cách nghỉ thông thường thì thành ra pháp tiêu diệt, mà pháp tiêu diệt thì tu hành không có ích gì, như cây khô không còn có ý nghĩa ..
          Đức Phật dạy chúng ta phải tôn trọng hết thảy chúng sanh, cảm ơn hết thảy chúng sanh, lấy sự tu tập giải thoát mà báo đáp thâm ân của cha mẹ. Đức Phật sau khi thành Phật, Ngài trở về hoàng cung báo hiếu cho cha và bà mẹ kế. Vua  cha lâm bệnh thì Ngài nói pháp cho vua nghe. Lúc vua lâm chung thì Ngài tự vai mình gánh thi hài vua cha đi mai táng. Người xuất gia báo đáp thâm ân cha mẹ bằng cách hướng dẫn cha mẹ tin ba ngôi Tam bảo, thực hành chánh nghiệp, làm lành lánh dữ, tạo phước đức. Chỉ có người không hiểu đạo lý mới cho Phật giáo không tôn trọng đạo hiếu. Trong Phật giáo nhấn mạnh “ Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật ”. Người xuất gia luôn lấy từ bi làm bản hoài, phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát hạnh. lợi mình lợi người, cứu độ chúng sanh, trên đền 4 ơn nặng dưới cứu khổ muôn loài, thương yêu tất cả côn trùng nhỏ bé. Người xuất gia dùng năng lực tu hành của mình để báo hiếu, nếu cha mẹ có khó khăn, giới luật của Phật cũng cho phép cúng dường cha mẹ, và cũng có thể đem cha mẹ về chùa để phụng dưỡng. Chúng ta nhiều kiếp luân hồi trong lục đạo thì cũng có rất nhiều cha mẹ, nếu kiếp này may mắn được xuất gia thì phải tinh tấn tu hành, hoá độ chúng sanh hữu duyên, trợ duyên hồi hướng cha mẹ nhiều đời.
          Xuất gia phải biết cầu tiến, vượt ra ngoài ba cõi, dùng trí tuệ liễu ngộ của mình mà phục vụ chúng sanh, làm cho chúng sanh được lợi ích thiết thực, từ vô minh mà đi vào giác ngộ. Dùng Phật pháp để hướng dẫn chúng sanh, lấy lục độ để giáo hoá muôn loài, do đó người xuất gia trước hết phải vì lợi ích cho chúng sanh, thành tựu Phật đạo, chỉ như thế mới là một người xuất gia chân chánh, không trốn tránh cuộc đời, không rời thế gian .
5.    Ý nghĩa thực tiển của người xuất gia.
Người xuất gia nhờ giữ gìn giới luật mà sinh được định, do định mà phát sanh trí tuệ, cuối cùng chứng đắc giải thoát giác ngộ. Nếu chúng ta dùng lòng tin chân chánh để áp dụng lời Phật dạy vào cuộc đời, đem lợi lạc cho cuộc đời thì chúng ta sẽ hoà hợp giữa mọi người, thế giới ta bà được an lạc thì đó là tịnh độ nhơn gian. Người xuất gia đi đến đâu cũng được tự tại, đó là một ý nghĩa cao quý của việc xuất gia.
          Xuống tóc xuất gia là chính thức dấn thân vào cuộc đời, vì cuộc đời đau khổ, chúng ta nguyện xin cứu khổ, lấy niềm vui của mọi người để làm niềm vui của mình, lấy hạnh phúc của người làm hạnh phúc của mình, thực hành hạnh Bồ Tát, không vì an lạc cá nhân mà nguyện giúp hết thảy chúng sanh hết khổ được vui. Như vậy, chính là đi vào thực tiển của cuộc đời. Người xuất gia báo ân Tam Bảo bằng cách thông cảm và hoà nhập với mọi người, nhu hoà và hiểu được mọi người, dùng từ bi để đối với mọi người, cung kính tôn trọng hết thảy mọi người, cảm ơn hết thảy mọi người.
                   Ý nghĩa xuất gia đối với Phật giáo :
           Phật giáo được lưu truyền trong thế gian là nhờ vào hàng ngũ tăng sĩ, thêm một người xuất gia chính là thêm một sức mạnh hoằng pháp, làm cho Phật pháp ngày thêm hưng thịnh. Phật pháp được hoằng truyền rộng rãi là nhờ sức mạnh của Tăng bảo. Kinh Tán Dương Công Đức Tăng bảo cho thấy người xuất gia có nhiệm vụ giữ gìn mạng mạch của Tam Bảo, tiếp tục ngọn đèn trí tuệ của chư Phật, kinh dạy : “ Người đệ tử xuất gia là người có thể đảm trách và kế tục chánh pháp của Như lai ở đời sau. Nếu đem tất cả công đức của người thế gian gộp lại cũng không thể sánh bằng một người xuất gia hoằng dương chánh pháp”.
          Lịch sử truyền bá Phật giáo đã khẳng định vai trò to lớn của Tăng bảo trong việc duy trì chánh pháp ở thế gian. Ngày nay mặc dù kinh sách đầy đủ mà con người vẫn khó tiếp cận với Phật giáo, chướng ngại lớn nhất của họ là không hiểu được phật pháp, vấn đề nầy liên quan đến sự giáo dục lâu dài, đồng thời phản ảnh hoạt động hoằng pháp chưa hiệu quả. Hơn nữa, công việc hoằng pháp chưa song hành với nền giáo dục hiện hành, chưa có phương tiện nào có đầy đủ tính chính xác và toàn diện để đưa Phật pháp phổ cập quần chúng, cho nên công việc hoằng pháp lợi sanh là một trách nhiệm lớn lao mà người xuất gia phải gánh vác.
                   Ý nghĩa xuất gia đối với xã hội :
           Xã hội phát triển không chỉ chú trọng văn minh vật chất mà còn phải kiến tạo văn minh tinh thần, nếu không sự phát triển của xã hội mất cân bằng. Hoằng dương Phật pháp là tích cực đóng góp văn minh tinh thần cho xã hội. Phật pháp là tâm pháp, thực hành phật pháp là tự rèn luyện hoàn thiện nhân cách và bình đẳng với tất cả chúng sanh trong pháp giới. Xã hội hiện đại nhấn mạnh vai trò của sự hoà hài, điều này rất khế hợp với tinh thần Phật giáo. Phật giáo không bao giờ nói đến đối lập mà nói đến dung hoà. Mọi người có thể học hỏi ở Phật pháp, nếu thế gian này mọi người đều học hỏi Phật pháp thì thế giới không còn chiến tranh, người với người hoà hài thương yêu.
          Xuất gia là gánh vác sự nghiệp của chư Phật, tiếp tục thắp sáng ngọn đèn chánh pháp. Sức mạnh của cá nhân tuy nhỏ bé, nhưng nếu có thể nói năng như chánh pháp, làm những điều Phật dạy thì có thể cảm động được tâm thức của nhiều người, cống hiến cho xã hội một giá trị hài hoà thân thiện. người xuất gia lấy việc lợi ích cho mọi người làm sự nghiệp, giúp xây dựng xã hội thanh bình, cải thiện nhân tâm, dùng từ bi mà bổ chính, hổ trợ cho những thiếu sót của giáo dục, góp phần xây dựng một quốc độ an lành, hạnh phúc cho mọi chúng sanh.
          Xuất gia là truyền thống tốt đẹp của Phật giáo, là sự cầu tiến của con người, tự tại giải thoát và chân thành sống với đời. Xuất gia là một sự tự nguyện cá nhân không có bất kỳ một sự gán ép nào. Xuất gia là sống với một đoàn thể tăng già hoà hợp, dung hoà một cá thể vào trong đại chúng, sống trong đại chúng để rèn luyện chất lượng bản thân, thực hiện lý tưởng giải thoát, đồng thời đem năng lượng từ bi và trí tuệ của đại chúng chuyển hoá thế gian, thúc đẩy cá nhân và cộng đồng không ngừng tinh tiến./.
                                                               Bài viết : Thích Thiện Chánh
                                                                 VHPG số 110- 15-12-2010


*************

Ý NGHĨA XUẤT GIA Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét