Là một con người phàm phu ở đời, không ai là
không mắt phải sự sai lầm, không có ai tự hào là hoàn toàn trong sạch. Vậy muốn
được trong sạch cần phải sám hối.
Người ta nói : “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài ”, Vậy ở trong bụi tất
phải lấm bụi. Bụi đời đã lâu đời lâu kiếp phủ lên thân chúng ta, vào trong tâm
thức của chúng ta. Chúng nó làm cho ta mờ tâm mờ trí không thấy được đâu là nẽo
chánh đường tà, nó làm cho chúng ta đục lòng, không thấy được chơn tâm sáng
suốt
Nếu chúng ta muốn sống mãi trong cảnh bụi nhơ, muốn đắm mình trong tội
lỗi, thì không nói làm gì. Nhưng chúng ta đã muốn được trong sạch, được an lạc thanh thoát, muốn trút bỏ tội lỗi
cho lòng được nhẹ nhỏm, thư thới, thì tất nhiên chúng ta phải tìm phương pháp
để trừ hết những bụi bặm, tẩy trừ cho hết những tội lỗi. Trong đạo Phật, phương
pháp tẩy trừ ấy gọi là Sám hối.
Chữ “ Sám ” nguyên gốc tiếng Phạn
gọi là Samma Trung Hoa dịch là Hối quá.
Ghép giữa tiếng Phạn và Trung Hoa Việt Nam đọc là Sám Hối. Kinh nói : “
Sám giả sám kỳ tiền khiên, Hối giả hối kỳ hậu quá ”. Nghĩa là Sám là ăn năn lỗi
trước, còn Hối là chừa bỏ lỗi sau. Nếu dùng một chữ Sám hay một chữ Hối thì
chưa đủ ý nghĩa. Nên các Tổ xưa ghép hai chữ lại thành danh từ “ Sám hối”,
Tiếng Việt gọi là “ ăn năn chừa lỗi ”.
Từ sám hối hơi giống giống như từ “xin lỗi ” ở
thế gian. Nghĩa sám hối có chiều sâu và thực tế hơn từ xin lỗi. Sám hối trong
đạo Phật bao hàm các tội từ kiếp trước cho đến hiện tại và vị lai. Sám hối
trong đạo Phật thể hiện trọn vẹn ba nghiệp, thân khẩu ý, còn xin lỗi chỉ thể hiện khẩu nghiệp còn thân và
ý có thể chưa thể hiện hết. Có lúc người
ta miệng nói xin lỗi nhưng tâm chưa chắc họ thay đổi. Sám hối trong đạo Phật có
tính cách thiêng liêng chứng tri cho việc cải hối ăn năn của hành giả thông qua
các danh hiệu chư Phật Bồ tác hoặc có sự chứng minh của chư tôn đức tăng. Nó
mang tính tích cực và có khả năng hóa giải nhiều tội chướng nghiệp chướng v.v.
Còn xin lỗi nó mang tính cách biểu trưng cho những sự việc làm gây tổn hại về tâm
lý vật lý của đối phương trong hiện. Nó chỉ giải quyết những sự bất hòa hay sự
lỡ lầm trong giai đoạn hiện tại nào đó chứ nó không bao quát rộng rãi và sâu xa
như phương pháp sám hối trong đạo Phật
Sám hối là một pháp tu tập trong đạo
Phật. Sám hối có nhiều cách và tựu trung trong hai việc là sự sám hối và lý sám
hối. Sám hối có nhiều cách cao thấp tùy theo trình độ căn cơ mà ứng dụng cho
mình trong việc tu tập.
Các
cách sám hối: Sám hối chưa toàn thiện:,
và sám hối toàn thiện:
a/ Sám hối chưa toàn: Là
sám hối theo ngoài thế gian và ngoại đạo. Người thế gian mỗi khi phạm phải sai
lầm, họ cũng sám hối bằng cách dùng lễ vật, như trầu rượu, heo gà tiền bạc v.v.. để tạ tội, xin lỗi. Có khi
người ta dùng hình thức “ đoái công chuộc tội ”, như khi phạm phải luật pháp
nhà nước hay quân đội chẳng hạn. Hình thức này cũng có cái hay nhưng chưa hoàn
hảo và còn thô thiển. Nó chỉ áp dụng để đối phó bên ngoài, chứ trong trường hợp những tội lỗi xảy ra trong nội tâm
của chúng ta, những tội ấy rất vi tế sâu xa, thì khó có thể mà áp dụng được
hình thức trên.
Trong ngoại đạo, người ta cũng
dùng nhiều hình thức chuộc tội : như có đạo dùng máu thú vật, máu người để xin
rửa tội với thần linh, có đạo chủ trương dùng nước để rửa tội, như xuống sông
trầm mình dưới nước . .người ta cho là linh thiêng hết tội, có đạo lại đem phẩm
vật để xin Thánh thần xả tội, có đạo chủ trương khổ hạnh, chịu nóng chịu rét,
nằm gai nếm mật để được giải thoát tội.
Những cách chuộc tội như thế đều sai lầm chưa toàn thiện. Tội lỗi thuộc về tâm lý, không có hình tướng.
Vậy thì làm sao có thể lấy vật chất như nước, máu huyết, phẩm vật hay xác thân
con người để làm cho sạch tội được.
b/
Sám hối toàn thiện :
Phật dạy : Tội lỗi do tâm con người tạo ra, không ai có quyền thưởng
phạt được. Kẻ gieo giống xấu thì hưởng quả xấu, người trồng giống tốt thì nhận
quả lành. Tội lỗi đã từ tâm tạo, thì cũng phải từ tâm mà sám. Vậy chúng ta muốn
hết tội, thì phải y theo những pháp sám hối chân chính của đạo Phật mà thực
hành. Trong đạo Phật có nhiều cách sám hối, bao gồm hai loại sự sám và lý sám.
Sau đây là các cách sám hối mà các kinh
luật đã đề cập.
1/ Chúng pháp sám hối : Phải lập đàn tràng và thỉnh chứng minh của
chư Tăng thanh tịnh, nên gọi là tác pháp. Đối trước chư tăng (4 người, 10 người
hay 20 người ) tùy theo trường hợp phạm tội nặng hay nhẹ. Hành giả phải thành
thật nói lên hết sự sai quấy lầm lỗi của mình đã gây ra, nhờ chư tăng chứng
minh cho lời khai thành thật của mình và nguyện từ nay về sau không tái phạm
nữa. Một lòng thành kính sám hối như vậy, khi giới thể được thanh tịnh, tức là
hết tội. .
2/ Đối thủ sám hối : Khi đã phạm lỗi lầm nào đó, hành giả đến gặp
một vị Thầy, đối trước vị thầy đó xin sám hối tội đã lỡ lầm gây ra, tội này có
tính cách nhẹ mới được, chứ tội lớn không thể dùng phương pháp đối thủ được.
3/ Tâm niệm sám hối : Khi
phạm những tội nhỏ nhẹ, hành giả chỉ tâm niệm trong lòng xét rằng điều đó trái
với oai nghi, trái với đạo hạnh của một hành giả tu tập, nguyện từ nay về sau
không tái phạm. Ví dụ hôm nay là ngày ăn chay mà mình đã phát nguyện hằng tháng
như vậy, nhưng không để ý quên mất, hoặc gặp vị thầy của mình hoặc chư tăng
chúng ta không tỏ ra chào hỏi cung kính đón tiếp v.v Sau đó nghĩ lại oai nghi của mình chưa hoàn
chỉnh, ăn năng sám hối trong lòng nguyện từ nay về sau không như vậy nữa. Đó là
pháp tâm niệm sám hối.
4/ Chế giáo sám hối : Là phương pháp dùng cho trường hợp phạm
giới. Khi hành giả vi phạm phải điều giới cấm đã phát nguyện thọ, nay bị phá vỡ
cần phải sám hối để đem lại sự thanh tịnh, thì dựa theo các phương pháp sám hối
quy định trong luật tạng mà sám hối gọi là chế giáo sám hối.
5/ Hóa giáo sám hối : Là
sám hối về các hành vi ác chung chung, là sám hối về bất thiện nghiệp, áp dụng
chung cho cả xuất gia và tại gia.
Hóa giáo sám hối có nhiều loại. Đó là
các phương pháp sám hối được kinh hoặc luận đề cập đến với mục đích giúp hành
giả dần dần tiêu trừ các pháp chướng đạo, bao gồm tụng kinh, bái sám, quán
tưởng v.v.. Như sám - 3 chướng phiền
não là : Phiền não chướng, nghiệp chướng và báo chướng. 4 chướng là cộng thêm
Kiến chướng. 5 chướng là Nghiệp, phiễn
não, chúng sanh, pháp và chuyển hậu thế chướng.
Trong hai cách này, chế giáo sám là sám hối theo Luật tạng, còn hóa giáo
sám là sám hối theo kinh luận.
- Sám hối theo luật là sám hối tội phá giới.
-
Sám hối theo kinh luật là sám hối hành vi phạm nghiệp đạo.
Về mặt từ nguyên sám hối có nghĩa là thuyết tội, tức nói lên sự lỗi lầm
của mình, việc làm phi pháp của mình. Trong luật tạng gọi là phát lộ.
Bốn loại sám hối :
1/ Tác pháp sám hối; Là phương pháp sám hối vận dụng cả thân miệng
ý. Thực hành pháp sám này, thì thân phải lễ lạy, miệng phải tụng đọc, ý phải tư
duy. Hải lập đàn tràng có sự chứng minh của chư tăng.
2/ Thủ tướng sám hối : tức lễ lạy sám hối trước tượng Phật Bồ tát
chừng nào thấy hảo tướng xuất hiện, như thấy hào quang phóng ra, hoặc Phật Bồ
tát đưa tay xoa đầu v.v thì lúc đó tội mới được gọi là tiêu trừ.
3/ Vô sanh sám hối: Là quán hết thảy các pháp vốn không thật có,
tội từ tâm khởi, tâm ấy vốn đã không nên tánh tội không có, tánh tội không nên
tội cũng không. Cách sám này áp dụng cho những vị có trình độ cao, trình độ
thấp chứ lầm tưởng áp dụng thì rất nguy hiểm.
4/ Hồng danh sám hối : Pháp sám này do Ngài Bất Động Pháp sư đời
Tống Trung Hoa biên soạn. Ngài rút ra 53 danh hiệu Phật trong kinh “ Ngũ thập
Tam Phật ” , và rút ra 35 hiệu Phật trong kinh “ Quán Dược Vương, Dược Thượng ”
Với Pháp Thân Phật A Di Đà, sau thêm vào kệ Phổ Hiền đại nguyện, thành nghi sám
hối này, tổng cộng 108 lạy, để ám chỉ trừ 108 phiền não.
Cách sám này đối trước tượng Phật, Bồ tát lễ lạy bày tỏ lỗi lầm của mình
từ xưa đến nay. Như Thủy sám, Lương Hoàng sám, Ngũ Bách Danh, Hồng Danh, Mục
Liên Sám Pháp, Tam Thiên Phật Danh, Vạn Phật Danh v.v . .Mỗi lần xưng danh một
vị Phật lạy một lạy, tùy sự phát nguyện lạy nhiều hay ít tùy sức khỏe và thời
gian. Lạy nhiều hay ít không đặt nặng vấn đề điều cần nhất là sự nhất tâm và
thành kính của hành giả.
Sự sám hối và lý sám hối
: Sự sám hối là nói tất cả nghi thức sám
hối của chế giáo cũng như hóa giáo, tức là sám hối có biểu hiện hình thức bên
ngoài. Lý sám hối cao hơn một bậc, là dùng trí quán chiếu thật tướng của các
pháp mà diệt trừ tội. Sự sám hối tương đương với với tác pháp sám hối và thủ
tướng sám. Lý sám hối tương đương với vô sanh sám.
Sau khi làm lễ sám hối xong. Cần phải phát triển hạnh lành cho nhiều, để
đem công đức hồi hướng tiêu trừ tội cũ,
Những tội lỗi của chúng ta từ xưa đến nay rất nhiều, có thể nói là vô
số. Sự sống của chúng ta nối tiếp liên tục từ đời nọ đến đời kia, như một xâu
chuỗi dài vô tận. Rồi cứ mỗi đời từ sanh đến tử, từ tử đến sanh, chúng ta cứ
tạo thêm tội mãi. Từ cái tệ này bắt qua cái dở khác, từ cái lỗi nhỏ đi tới cái lỗi lớn, cái đà ấy tăng dần mãi
tạo thành một sức mạnh gọi là nghiệp lực, dắt dẫn chúng ta đi vào con đường khổ
não, mê lầm, tức dòng sanh tử chúng ta đang thọ vậy.
Trong kinh nói : “ Nếu tội lỗi của chúng sanh có hình tướng, thì tất cả
hư không cũng không thể chứa hết ”. Thật thế, tội lỗi của chúng sanh chất chồng
muôn vạn kiếp, và truyền nối qua thời gian, bởi di truyền, phong tục, thói quen
v.v Những tội lỗi ấy là những tánh xấu tiềm ẩn trong tâm chúng ta, như tham,
sân, si, mạn v.v rất sâu sắc, khó dứt khó trừ. Trong kinh gọi chúng là “ câu
sanh vô minh” hay “ Bổn hửu chủng tử ”, nghĩa là những hạt giống ấy đã có từ
lâu. Những hạt giống này lại làm duyên sanh ra những tội lỗi khác, trong kinh
luận gọi là “ Phân biệt phiền não ” hay “ thỉ khởi chủng tử ” nghĩa là hạt
giống mới nhiễm do ảnh hưởng thời đại, tập quán, phong tục chi phối. “Phân biệt
phiền não” thì có thể dễ trừ, nhưng “ câu sanh vô minh” thì rất khó trừ.
Cho nên chúng ta không nên sám hối
lấy lệ, lấy có được ! Chúng ta phải làm sao cho :
a/ Những tánh xấu kia yếu bớt dần dần, do sức mạnh của lòng thành khẩn
và chí cương quyết.
b/Rồi dứt tuyệt chúng, mà nếu không có phương pháp thích hợp, thì chẳng
khác gì lấy đá đè cỏ, nó bị đè tạm thời, nhưng khi dời đá đi nó mọc trở lại.
Phương pháp thích hợp trong sự sám hối là : Phát tiển hạnh lành, để tiêu trừ tội cũ.
Phát triển hạnh lành: Trong mỗi chúng ta không phải toàn chứa đựng những tánh xấu
xa. Nếu tánh xấu đã có từ muôn thuở, thì tánh tốt cũng có từ vô thỉ. Chúng ta
mỗi người ai cũng đều có Phật tánh là cái mầm muôn hạnh lành, cái mầm ấy đã bị
chôn vùi dưới bao lớp dục vọng thì chúng ta phải tạo điều kiện, cho cái mầm
phật tánh trổ lá, lên hoa kết trái Bồ đề. Điều kiện làm cho mầm Bồ đề phát
triển là những hạnh lành như Từ bi, Hỷ xả, Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh
tấn v.v.. Nếu chúng ta phát triển những tánh tốt ấy, tất nhiên những tánh xấu
không có đất để mọc lên nữa.
Sám hối có tác dụng tích cực như là một phương pháp tu tập xét trên bình
diện tâm linh. Sám hối có tác dụng chữa trị thuộc lãnh vực tâm lý.
Về mặt
tâm linh, sám hối đóng vai trò như một pháp môn tu tập giúp hành giả đạt được
những bước tiến trên con đường giác ngộ giải thoát.
Ích lợi đầu tiên ở trong lãnh vực tu tập là khôi phục giới thể
thanh tịnh cho người phạm giới. Nếu phạm các điều khoảng giới mà không phát lồ
sám hối trước tăng, tức là sám hối theo chế giáo nghi, thì giới thể bị ô nhiễm.
Kinh nói giới có thanh tịnh thì mới phát sinh thiền định, có thiền định mới có
trí tuệ. Giới thể này là năng lực phòng phi chỉ ác được phát sanh trong quá
trình cầu thọ giới, nó có chức năng ngăn không cho các pháp hữu lậu xâm nhập
vào tâm. Chỉ có sám hối mới có khả năng khiến cho giới thể đã bị ô nhiễm trở
lại thanh tịnh.
Lợi ích thứ hai trong lãnh vực tâm linh là tiêu trừ nghiệp. Xét
hành vi phạm giới có hai yếu tố, đó là phạm giới đối với tăng- tức là đi ngược
lại những giao ước sống chung của tăng và phạm nghiệp đạo. Yếu tố phạm giới thì
trên đã nói, nó chỉ giới hạn ở hàng ngũ xuất gia- Yếu tố phạm nghiệp đạo thì
bao quát cả tăng lẫn tục. Sám hối theo chế giáo nghi thì giới thể được thanh
tịnh trở lại, nhưng nghiệp đạo đã phạm thì vẫn không mất, bởi vì chế giáo căn
cứ trên tướng - Chỉ có sám hối theo hóa giáo nghi thì nghiệp đạo mới tiêu trừ,
do hóa giáo thuộc phạm trù tánh. Vì vậy thực hành các phương pháp sám hối theo
kinh luận như tụng kinh bái sám, quán tưởng sẽ giúp hành giả dần dần tịnh hóa
nghiệp của mình.
Ngoài ra các phương pháp sám hối mà đức Phật nói trong kinh còn là thời
khóa tu tập để tăng cường giới định huệ v.v. Trong khi tu tập pháp sám hối thân
thể lễ bái, miệng tụng đọc tương đương với (tác pháp sám hối ) Tâm ý chuyên chú
vào đối tượng như Phật, Bồ Tát, đó là tương đương với định (Thủ tướng sám hối
), nếu hành giả dùng tâm ý quán chiếu thật tánh của các pháp để diệt trừ vô
minh thì sám hối ấy tương đương với tuệ ( vô sanh sám hối). Sám hối vì thế trở
thành trợ duyên cho ba môn giới định tuệ tăng trưởng.
Về mặt tâm lý, sám hối theo luật tạng có công năng như một biện pháp
chửa trị, nuôi dưỡng một tâm hồn thanh cao.
Với đạo Phật, người sám hối là người đang cần sự giúp đỡ của tăng chứ
không phải thú nhận tội lỗi để chịu tội hay được tha thứ (xá tội ).
Thông thường trong các tôn giáo khác, khi nói đến sám hối thì mọi người
đều nghỉ ngay đến ý niệm “ tội ” như là hành vi không vân lời đối với đấng tối
cao như chúa, Thượng đế. . .thế nhưng “ tội ” trong đạo Phật không phải như vậy
. Với Do Thái giáo, tội là sự bỏ qua không vâng lời theo ý muốn của Thượng đế,
với Cơ Đốc giáo, tội nói chung là những gì đã tách con người ra khỏi Thượng đế,
trong đó tội Tổ tông là trường hợp điển hình, ngoài ra không tin chúa Jesus
cũng được xem là một tội nặng. Với Hồi
Giáo, tội chủ yếu là sự làm trái ý Thượng đế. Nói chung trong các tôn giáo nhất
thần thì tội là vấn đề liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vị thần linh được
tin tưởng.
Phật giáo không quan niệm có một đấng toàn năng với quyền uy tuyệt đối
và một chiều như là đấng “ sáng tạo ” để ban phước giáng tội cho con người, cho
nên không có khái niệm “ tội ” như là hành vi trái phạm đối với vị ấy. Chữ “tội
” mà chúng ta đang đề cập đến ở trong phần sám hối này, theo quan niệm của phật
giáo, chỉ có nghĩa là những hành vi xấu ác, tánh xấu ác này là dựa trên tính
chất căn bản của nghiệp được tạo. Chữ “tội ” theo nghĩa tiếng phạn là “ cái bị
rơi ”. Như thế, người phạm tội là người không theo kịp mọi người, bị rơi từ chổ
cao xuống chổ thấp do phạm phải các điều xấu ác. Đối với những người “ bị rơi ” như thế, tức
là những người yếu đuối, sự giúp đỡ từ những người “ không bị rơi ” là điều rất
cần thiết, cho nên họ phát lộ lỗi lầm của mình trước tăng ( những người không
bị rơi ) để cầu xin năng lực nâng đỡ. Thông qua năng lực nâng đỡ từ những lời
giáo giới cuat tăng và sự thánh thiện phát ra (
khái niệm từ lực của những vị có giới đức tạo thành một lực trường có
khả năng ảnh hưởng đến những người khác, giống như khái niệm từ trường trong
vật lý học ). Từ bản thân tăng thiện pháp ( ý chí làm lành lãnh dữ ) ở trong
con người lầm lỗi ấy sẽ tăng thêm. Đây chính là một ý nghĩa rất quan trọng mang
tính chửa trị tâm lý của việc sám hối.
Lại
nữa, xét về tâm lý người phạm tội luôn luôn mang cảm giác bứt rứt, hối hận, gọi
là cảm giác tội lỗi, khiến cho tâm họ không được yên ổn ( đây chính là lý do mà
luật nói những người phạm giới nặng mà không phát lồ sám hối thì nhập định
không được ). Hơn nữa, những cảm giác xấu ấy nếu trãi qua lâu ngày mà không
được giải tỏa sẽ chuyển thành trạng thái mặc cảm dưới dạng vô thức và tiếp tục
ảnh hưởng đến tâm thái của người phạm tội. Theo phân tâm học thì chính mặc cảm
vô thức này góp phần đưa đến những cảm xúc và hành xử có tính cách bất bình thường cần được chửa
trị. Trong chừng mực nào đó, sám hối là cách giải tỏa cái tâm lý đang bị dồn
nén ấy ( phát lộ hay thuyết tội ). Cũng như một người khi có điều muốn nói mà
chưa nói ra được, do vì e ngại hoặc không có đối tượng để tỏ bày thì trong lòng
cứ thấy bồn chồn, tâm trạng cứ như “
ngồi trên lửa ”,
Cuối cùng sám hối là dùng hai tâm
sở thiện tàm và quý để đối trị hai tâm
sở bất thiện vô tàm và vô quý (tàm quý nghĩa là hổ và thẹn ), tức lợi dụng tâm
lý xấu hổ để khống chế những hành vi xấu ác, đưa hành giả đến chổ toàn thiện.
Kết luận : Đến đây, hẳn chúng ta thắc mắc một điều: Liệu sám hối rồi tội
có hết không ? Để trả lời nghi vấn này chúng ta phải dựa vào tam tạng giáo điển. Nếu xét về yếu tố phạm giới, các
bộ luật đều khẳng định sám hối như pháp thì giới thể trở lại thanh tịnh như củ.
Riêng yếu tố phạm nghiệp đạo thì rõ ràng là không đơn giản. Các kinh thường nói
sám hối thì nghiệp được tiêu trừ, thế nhưng không phải sám hối là nghiệp mất
hết, không còn phải chịu quả báo. Ngài Long Thọ khẳng định trong Thập Trụ Bà Sa
luận rằng :
“ Ta không nói sám hối thì nghiệp tội diệt hết, không còn quả báo, ta
chỉ nói sám hối thì tội giảm nhẹ, thời gian lãnh thọ ngắn hơn ”.
Nói tóm lại, sám hối là một
phương pháp gột rửa tâm có vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. Nhìn từ khía
cạnh chế giáo, sám hối mang tính cưỡng bức và thuộc tác trì môn, mục đích của
nó đem lại sự thanh tịnh và hòa hợp trong tăng theo tinh thần quy ước của giới
luật. Người phạm giới sau khi sám hối đúng theo luật thì giới thể trở lại thanh
tịnh như củ. Tất nhiên với những tội luật cho sám hối. Lại nữa, bên cạnh yếu tố
phạm giới còn có yếu tố phạm nghiệp đạo thì không thể sám hối theo luật mà hết
được, phải sám hối theo kinh hoặc luận. Nhìn từ phương diện kinh luận, tức khía
cạnh hóa giáo, sám hối mang tính tự nguyện và dựa trên tính chất căn bản của
nghiệp đạo, mục đích của nó là tiêu trừ nghiệp, giúp hành giả thăng tiến trên
con đường giải thoát .
Nếu thực hành sám hối đúng pháp thì đem lại những kết quả như sau :
- Làm phát triển tánh thành thật.
- Trau dồi đức tánh cương quyết trong sự diệt trừ tánh xấu.
- Dứt được tội, sanh phước.
- Mau thẳng đến chổ giải thoát an vui.
Nhờ pháp sám hối của Đạo Phật, mà
con người có thể cải hóa lòng mình tốt đẹp hơn. Nhờ pháp sám hối, con người có
thể làm cho đời sống cá nhân được hạnh phúc, và đời sống xã hội được hòa bình
an lạc.
Vậy ai là người muốn hết tội lỗi, ai là người muốn giải thoát sanh tử
luân hồi, ai là người yêu chuộng chân lý, thì hãy cùng nhau nghiên cứu và thực
hành các pháp sám hối của đạo Phật cho kỷ, để trước là cải thiện đời sống cá
nhân, sau là đời sống của giống hữu tình được bớt đau khổ, và an vui./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét