Chúng sanh đa bịnh nhiều
phiền não, căn cơ lợi độn khác nhau, vì thế đức Như lai nói ra có nhiều pháp
môn để thích hợp cho mọi căn cơ. Cả thảy có 84.000 pháp môn để đối trị phiền
não của chúng sanh. Trên thực tế đường về không hai lối, phương tiện có nhiều
môn.
Người phát tâm học tập và thực hành phương pháp giải thoát của Phật, thì
tuỳ theo khả năng của mình mà chọn lựa một pháp môn, không nên tham nhiều pháp
môn, hãy nổ lực am tường và chuyên sâu vào một pháp môn. Khi đã chọn cho mình
một pháp môn, sau đó phân định thời gian sao cho thích hợp với hoàn cảnh, công
việc của mình làm thời khoá tu tập. Ngày nào cũng công phu tu tập đều đặn như
vậy, một thời gian tự nhiên sẽ cảm nhận được sự thanh thoát và tự tại trong
cuộc sống hằng ngày. Đó là đã đạt được một phần chứng đắc trên bước đường tu
tập. Nhiều pháp môn tu ta thường nghe và thường gặp như:
Tham
thiền : Nói đến thiền là người
ta nghỉ ngay đến đạo Phật. Đức Phật đạt được sự chứng ngộ vô thượng chánh đẳng
chánh giác là từ việc tham thiền nhập định ma ra. Thiền là cơ bản, là cốt lõi
của các pháp môn tu trong đạo Phật. Thiền có nhiều loại ta cần phải biết lựa
chọn , để thích hợp với căn cơ và sức lực của mình. Như Đại thừa thiền, tối thượng thiền, tiểu thừa
thiền, tổ sư thiền. Trong thiền tổ sư lại có thiền công án và thiền thoại đầu . Đó là các
loại thiền nằm trong Phật giáo dành cho các căn cơ từ cao đến thấp. Nhưng tu thiền cần phải có vị thầy tu thiền đắc pháp thiền
để ta nương tựa tu tập, nếu không có ta dễ bị lạc thiền. Ngoài thiền Phật ra
còn có ngoại đạo thiền và phàm phu thiền. Nếu người tu thiền không có sự chỉ
dẫn sẽ bị lạc vào con đường thiền phàm phu và ngoại đạo khó có con đường đi ra.
Cho nên tu thiền cần phải thận trọng, trước hết chọn pháp tu để thích hợp với
căn cơ và sức lực của mình, thứ hai phải có vị thầy hướng dẫn bên mình, thứ ba
giữ giới thanh tịnh, thứ tư phải có trí tuệ để quán sát chánh tà, chơn nguỵ,
thứ năm phải có môi trường thích hợp, thanh tịnh không ồn ào náo nhiệt. v.v
những điều kiện tất yếu này giúp cho việc tu thiền mau tiến bộ và không bị sai
lạc và thối lui.
Tu Mật : là pháp môn chuyên trì thần chú, pháp tu đòi hỏi tam mật
tương ưng, nghĩa là miệng trì niệm chân ngôn, tay bắt ấn, ý khởi quán vi diệu.
Pháp môn trì chú này cả ba phương diện thân, miệng, ý đều có quy luật nhất
định. Mỗi khi trì chú dùng tay bắt ấn là thân mật, miệng đọc chú, từng câu từng
chữ rõ ràng, tuyệt không thiếu sót, là khẩu mật. Mỗi câu chú đều có chư Phật,
Bồ Tát làm đối tượng, trong tâm phải quán chủng tử tự của thánh hiệu Phật hoặc
Bồ Tát ( lấy mỗi mẫu tự của thánh hiệu Phật, Bồ Tát thay thế cho bản thể của
chư vị, gọi là chủng tử tự) là ý mật. Nếu tam mật được tương ưng như thế, tự
nhiên những vọng niệm trong tâm thức hành giả sẽ vắng bặt. Muốn tu trì theo mật
tông, cần phải có vị thầy mô phạm dùng thân khẩu truyền thọ, mới có hiệu lực,
bằng không tất cả chỉ nói bằng miệng chứ không thể thực hành, do đó khó đạt đến
quả vị giải thoát.
Niệm Phật : Niệm Phật là pháp môn của tông tịnh độ, pháp môn này
phổ cập ba căn, thâu nhiếp lợi độn, là pháp dễ thực hành trong các môn dễ hành.
Phương pháp tu trì chỉ cần nhất tâm trì niệm sáu chữ hồng danh Phật hiệu A Di
Đà, quả thật phương pháp tu đơn giản dễ phổ biến cho mọi người cùng thực tập.
Là pháp tu dễ tu dễ đạt ít rớt không nguy hiểm, một đời thành công. Vì lý do đó
nên rất được nhiều người thực tập tu có nhiều kết quả lúc hiện tiền.
Đề mục tu niệm danh hiệu Phật là một
trong 40 đề mục tu thiền quán trong pháp môn tu thiền của Phật giáo nguyên
thuỷ. Niệm Phật là một trong pháp tu lục niệm. Lục niệm là : niệm Phật, niệm
Pháp, Niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, và niệm thiên . Lại pháp tu niệm Phật gồm có bốn pháp : 1- Trì
danh niệm Phật, 2-Quán tượng niệm Phật, 3-Quán tướng niệm Phật và 4- thật tướng
niệm Phật. Trong pháp quán tướng niệm Phật lại có 16 pháp quán. Nhưng chỉ có
pháp trì danh niệm Phật là dễ hành nhất, các pháp kia khó hành. Tuy là pháp dễ
hành nhưng khi thành công rồi các pháp kia đã có đủ trong pháp này.
Trong tất cả pháp môn, nếu tìm ra pháp môn thông cả ba căn, thâu nhiếp
cả lợi căn và độn căn, thích hợp với căn tính chúng sanh trong thời mạt pháp
này, duy chỉ có pháp môn tịnh độ trì danh niệm Phật là đáp ứng được.
Vì sao pháp môn niệm Phật là pháp môn thông cả ba căn, thâu nhiếp cả lợi
căn và độn căn. Vì các pháp môn khác, lúc bước
vào cần phải am tường giáo lý một cách rõ ràng thâm sâu, theo pháp tu
hành, khi công phu thâm hậu, đoạn trừ phiền não, chứng đắc chân lý mới có thể
thành tựu. Nếu không thông giáo lý, thực hành một cách mù quáng, thì sẽ điên
cuồng rối loạn, cho dù thâm hiểu giáo lý, tinh tấn không giải đãi, nhưng vẫn
còn chút phiền não chưa đoạn tận cũng vẫn không thoát khỏi vòng sanh tử luân
hồi. Những pháp môn này, gọi là nương vào sức của mình để tu tập gọi là pháp tự
lực.
Trong khi đó, pháp môn niệm Phật, bất luận người thông minh, lợi căn hay
độn căn, lanh lợi hay ngu dốt, chỉ cần có thể trì danh niệm Phật, cầu sanh tịnh
độ. Cho dù không thông hiểu giáo lý, chưa có khả năng đoạn sạch phiền não
nghiệp chướng, chỉ cần tín nguyện thâm sâu tha thiết, đến lúc lâm chung, nương
vào sự gia trì của Đức Phật tiếp dẫn mình về Tây phương. Cho nên pháp môn tịnh
độ là pháp môn vừa tự lực vừa tha lực. Pháp môn tự lực cũng giống như người đi
du lịch, đi bằng bộ, không đi xe, tàu gì cả, tất nhiên đi rất chậm. Còn pháp
môn niệm Phật nương vào tha lực của Phật và tự lực của mình, ví như người đi du
lịch, đi bằng xe, bằng tàu thì mau đến đích.
Đức Phật A Di Đà phát ra 48 nguyện độ chúng sanh, trong đó phải kể đến
nguyện thứ 18, 19, 20. Ngài phát nguyện : “ Nếu tôi thành Phật, chúng sanh
trong 10 phương, chí tâm tin ưa, muốn sanh về nước tôi, cho đến 10 niệm, nếu
không được sanh, thề không lấy ngôi chánh giác”.
“ Nếu tôi thành Phật, chúng sanh trong 10 phương, phát tâm Bồ đề, tu các
công đức, chí tâm phát nguyện, muốn sanh về nước tôi, cho đến lúc sắp mạng
chung, tôi và thánh chúng không hiện ra trước người ấy vây quanh tiếp dẫn, thề không
lấy ngôi chánh giác ”.
“ Nếu tôi thành Phật, chúng sanh trong 10 phương, nghe danh hiệu tôi,
nhớ nghĩ đến nước tôi, gieo trồng nhiều công đức, chí tâm hồi hướng, muốn sanh
về nước tôi, nếu không được sanh, thề không lấy ngôi chánh giác ”.
Thế
giới Tây phương Cực lạc, đất nước thanh bình an lạc, khí hậu ôn hoà dễ chịu,
vạn vật xinh đẹp, cung điện trang nghiêm, ngày đêm sáu thời có nhạc trời có mưa
hoa, các âm thanh vi diệu, tiếng pháp luôn luôn tuyên lưu..... là một thế giới
thanh tịnh vi diệu. Chúng sanh ở cõi này về
tinh thần vật chất đều không khổ, thân tướng đoan nghiêm, thọ mạng lâu
dài, đầy đủ lục thông, luôn ở trong chánh định, trí tuệ biện tài, đắc vô sanh
pháp nhẫn. Đạo tâm không thối, không bị đoạ vào đường xấu ác. Đây chính là lý
do mà thế giới này gọi là Cực lạc, cũng gọi là Tịnh độ./.
Tông phái tịnh độ lấy việc vãnh sanh Tịnh độ làm mục đích. Tịnh độ là
cõi nước được trang nghiêm bằng các công đức thanh tịnh. Tịnh độ tông còn gọi
là liên tông, vì người tu tịnh độ lấy ý nghĩa vãng sanh Tây phương đều hoá sanh trong hoa sen, nên nước Cực lạc
cũng gọi là Liên bang. Tông này đặc biệt lấy việc xưng niệm thánh hiệu Phật làm pháp tu, chủ yếu
nương vào tha lực của bản nguyện đức Phật A Di Đà, cầu nguyện được sanh về Tịnh
độ Cực lạc ở Tây Phương.
Hành giả tu Tịnh độ gọi là liên hữu, đạo tràng tu tịnh nghiệp gọi là
Liên xã, pháp tu gọi là Liên tông./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét