Việc xác
lập quan điểm sống đúng tinh thần chánh pháp trở thành một trong những ưu tư
thường trực của các bậc tu học tâm huyết. Mỗi khi đối mặt những tình huống nan
giải, họ thường viện dẫn câu nói quen
thuộc trên để vừa an ủi mình vừa sách tấn đệ tử, như một bài học kinh nghiệm
giáo dục tinh thần sống, một kết luận đanh thép, một lời răn đe, cảnh cáo
nghiêm khắc, và ngầm diễn tả đời sống thực tế, vạch lối đi cho những kẻ cùng
đường và khẳn định sức mạnh của Tăng.
Hai danh từ Tăng và Hổ cùng hiện diện với một động từ “Ly
” được nhắc đi nhắc lại hai lần. Thật ý vị khi hai danh từ Tăng và Hổ tính từ “
tàn ”và “ hại ” có nghĩa nghĩa khá tương
đương nhau.
Chữ Tăng ở đây nghĩa gốc là một tập
thể những người xuất gia tu hành sống chung với nhau trong một trụ xứ. Giới
luật Phật giáo quy định ít nhất bốn vị Tỳ kheo sống với nhau thanh tịnh hòa
hiệp gọi là Tăng, nói đúng là Tăng già, Sangha. Bản chất của Tăng là thanh tịnh
và hòa hiệp. Theo dòng thời gian, danh từ chung chỉ cho tập thể này được sử
dụng lầm lẫn và trở thành một danh từ riêng cho cá nhân. Một tu sĩ nam Phật
giáo thường được gọi là Tăng. Dù chung hay riêng, bao giờ Tăng cũng là một
trong ba ngôi báu, và được tôn xưng là Chúng trung tôn, những bậc đáng tôn kính trong loài người.
Hổ, loài động vật dũng mãnh, sống
bầy đàn, nổi tiếng hung dữ, nhân gian thường gán cho biệt danh “ chúa tể sơn
lâm”. Chúng trong câu Tăng ly chúng Tăng tàn là một danh từ chỉ cho một tập thể
nhiều người xuất gia cùng sống chung trong một trụ xứ. Bao gồm các sư trưởng,
huynh đệ, pháp hữu, phật tử tại gia hộ trì của của một tự viện, đạo tràng tu
học.
Chúng còn được hiểu là tập hợp những
gì gọi là môi trường sinh hoạt của Tăng. Môi trường ấy có hai: - Môi trường vật
chất và môi trường tâm linh.
1/ Môi
trường:
a-Môi trường sinh sống , cư trú, môi
trường vật chất, là tu viện, chùa chiền, tịnh thất.
b-Môi trường tâm linh là toàn bộ hệ
thống giáo lý: Giới, Định, Huệ Phật giáo. Do đó, chúng là tịnh giới là sự thanh
tịnh hòa hợp của Tăng. Danh từ Chúng có cùng nghĩa với Sơn, đều chỉ chung về
môi trường sinh sống của tập thể lẫn cá thể, con người hay động vật.
Tách ly, ly khai, từ bỏ, xa rời là các
giới nghĩa cơ bản của ly. Tách mình ra khỏi tổ chức, lìa bỏ tập thể để sinh
hoạt ở một nơi khác gọi là ly. Khoảng
cách địa lý không gian và sự khác biệt quan điểm tư tưởng làm con người
ly khai nhau. Ly có hai : Tách ly hành động và tách ly lý tưởng. Tàn : suy mòn,
hư héo, hết sức sống như tàn rụi, tàn phế, tàn tạ. Nghĩa bóng của nó là sự suy
thoái tư cách đạo đức. Bại, thua, liệt, không cử động được, hư hỏng, đồi bại,
mất trắng, thất bại. Nguyên nghĩa chữ Hán : Ly, Tàn và Bại có thêm một số nghĩa
rất phù hợp với bối cảnh câu đối trên. Ly : a- Xa cách, lìa tan b- thiếu
c- dính, bám, d- không tuân theo, làm trái. Tàn : a- giết hại, bị làm
hại, b- hung ác, tàn ác c- hư hỏng, hư hại, rách nát, sức mẻ, d- thiếu khuyết,
tàn tật, đồ bỏ đi. Bại : a- thua, thất
bại, b- hỏng , đỗ nát, c- tàn rụng, nghiêng đổ.
Ta thấy Tàn và Bại có cùng nghĩa khá tương đồng nhau. Vậy, Tăng ly chúng
Tăng tàn nghĩa là khi người xuất gia sống tách rời khỏi đoàn thể sinh hoạt của
mình, giới pháp Phật chế, không chóng thì chầy cũng trở nên hư hỏng, sa đọa,
mất mạng giống như cọp một khi ra khỏi rừng sẽ bị giết chết. Hổ ly sơn hổ bại.
Hai
câu đối trên muốn truyền đạt đến chúng ta điều gì ? Đầu tiên, nó là một lời dạy
mang tính cách khuyên răn, răn đe, giáo dục, sách tấn, cảnh cáo. Nó khuyên Tăng
ni tôn trọng nếp sống tập thể, tuân theo đời sống giới luật tu viện. Nó giáo dục
tinh thần, ý thức sống khép mình vào mọi sinh hoạt cộng đồng Tăng chúng. Biệt
chúng là con đường đi vào nẻo tối tăm của tội lỗi. Nó cảnh báo trước rằng, sự
tách mình ra khỏi sự bảo vệ của đoàn thể không bao giờ đem lại kết quả tốt đẹp.
Hậu quả thường xảy ra khi vị tu sỉ trẻ từ bỏ đời sống tu viện là dễ sa ngã, đọa
lạc vào dục lạc thấp hèn của thế gian, mất hướng đi thánh thiện, thậm chí rơi
vào những tiêu cực, khiếm khuyết về phẩm hạnh đạo đức.
Kế
đến Tăng ly chúng Tăng tàn, Hổ ly sơn hổ bại cung cấp cho chúng ta các bài học
kinh nghiệm quý báu. Đó là kinh nghiệm về sự an toàn về đạo hạnh của mỗi tu sĩ
nếu họ biết an tâm sống theo các quy chế của tu viện. Càng xa cách giới luật
chúng bao nhiêu, người tu hành càng dễ bị thế tục hóa bấy nhiêu. Từ chối sự bảo
bọc của tập thể Tăng là tự rước họa vào thân. Có kẻ cho rằng sống độc lập
để dễ dàng làm công tác Phật sự. Họ lầm,
họ cần suy ngẫm hình ảnh con hổ bị phanh xác bởi bầy chó rừng để phản tỉnh bản thân. Há đây không phải bài
học xương máu trãi qua bao thăng trầm lịch sử của liệt tổ sư chúng ta dặn dò hay sao ?
Tiếp theo, câu trên gián tiếp trình bày một
yêu cầu có tầm vóc quan trọng trong việc duy trì chánh pháp. Đó là yêu cầu mỗi
cá nhân tu sỉ, cần sở hữu những nhận thức sinh hoạt đúng đắn. Họ biết rằng đoàn
kết mang lại an toàn và sức mạnh trong suốt lộ trình tu học của mình. Họ cần ý
thức thường trực vai trò và địa vị của mình để tránh phát sinh những tư tưởng
và hành động đi ngược lại lợi ích của giới luật và đoàn thể nơi mình sinh ra và
trưởng thành Tăng.
Từ yêu cầu nầy, cho phép chúng ta thấy
rằng nó trực tiếp diễn tả một thực tế sinh động đã đang và sẽ mãi diễn ra trong
nội bộ đời sống Tăng già. Thực tế bản chất của Tăng vốn hòa hợp nhưng bản tính
con người ưa chia rẻ. Tăng ly chúng nghĩa là nội bộ Tăng đã hiện hữu sự thiếu
thanh tịnh và hòa hợp. Đức Phật thường nhấn mạng ý nghĩa và mục đích hòa hợp và
thanh tịnh của đoàn thể Tăng già nhưng mỗi cá nhân cũng như tập thể Tăng không
phải bao giờ cũng trung thành với tinh thần lục hòa. Sự kiện ly khai giáo đoàn
của Đề Bà Đạt Đa là minh chứng đau buồn nhất cho thực tế ấy. Sự chọn lọc để duy
trì và phát triển trong lòng xã hội đầy biến thiên đòi hỏi giáo đoàn phải trãi
qua nhiều lần phân hóa nhằm tuyên truyền cũng như thích ứng sâu rộng chánh pháp
vào cuộc đời. Mái chùa bao giờ cũng mở rộng đón nhận những ai phát tâm tu hành,
song vẫn thường xuyên khép cổng đưa tiễn các đệ tử xuất gia trở về với trần
gian ràng buộc. Không thể thống kê có bao nhiêu người cởi áo nâu sồng để khoác
áo tục nhân. Giáo hội cũng chẳng thể nào biết được hằng năm có bao nhiêu Tăng
ni hoàn tục. Từ thực tế ấy, câu trên rõ ràng đã vạch lối sống cho Tăng. Đó là
sống cùng nhau thành những tập thể hòa hợp thanh tịnh, đoàn kết và vững mạnh,
phải giảm thiểu tối đa sự chia ly, bất kể chia ly lớn, phân hóa giáo đoàn, hay
nhỏ. Vị Tỳ kheo rời chúng ở riêng một mình đều làm suy yếu sức mạnh của tập thể
Tăng.
2/Hai vòng nhân quả : Hai câu
trên đối nhau hoàn chỉnh xuyên qua các hình ảnh đắt giá tương xứng. Việc điệp
từ : Tăng, Hổ, Ly đều hai lần, có tác dụng nhấn mạnh ý nghĩa cần thiết. Ngôn
ngữ gãy gọn, cô đọng, hàm súc. Nếu “ly ” là nhân thì “tàn”
là quả . Chính các hành động và tư tưởng của mỗi cá nhân tu sĩ trược ra
ra khỏi đường rây sinh hoạt của Tăng chúng dẫn đến việc từ bỏ nếp sống thanh
quy: - Ly. Do sự từ bỏ sự che chở của Tăng, cá nhân tu sĩ khó chống chọi với
bát phong thường xuyên thổi mạnh. Vì
vậy, việc bị cuốn theo dục lạc thế tục là kết quả hiển nhiên. Đó là vòng nhân
quả thứ nhất. Vòng nhân quả thứ hai “ tàn ” là nhân “ ly ” là quả. Vì tu sĩ
sống trong tập thể Tăng nhưng không tuân thủ các quy định của Tăng tức là
“tàn”, thì trước sau gì cũng bị Tăng loại trừ ra khỏi tập thể : “ ly ”. Thậm
chí không cần Tăng trục xuất mà họ đã tự ý tìm cách thoát ly trước. Thật ra,
vòng nhân quả thứ nhất là nói xuôi, vòng nhân quả thứ hai là nói ngược lại cho
trọn vẹn vấn đề mà thôi. Thế là ly = tàn .
3/ Suy luận : Điều làm chúng ta suy tư đầu
tiên. Vì sao ly ? Nói cách khác, đâu là lý do dẫn đến sự ly ? Bất đồng quan
điểm về giáo lý, giới luật và những gì phát sinh trong quá trình sinh hoạt được
xem là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc Tăng ly chúng. Điều này bao gồm cả
những sự bất mãn, xung đột cạnh tranh lẫn sự ganh ghét tỵ hiềm, tật đố giữa các
thành viên trong tập thể. Nếu cá nhân không tuân thủ các luật lệ thành văn và
bất thành văn của đời sống tự viện thì cố nhiên bị tách ly khỏi tập thể. Bản
thể Tăng thanh tịnh nhưng người là Tăng không phải ai cũng thanh tịnh. Nhìn
chung có hai lý do tổng quát. Một, chủ quan, nghĩa là do ước muốn cá nhân.
Chính sự bất mãn hoặc sự sụp đổ lý tưởng xuất gia đã khiến cá nhân tu sĩ rời bỏ
đoàn thể. Con người ai mà không cố gắng tìm kiếm “ tự do” cho chính mình ? Bị
thôi thúc bởi những vọng tưởng, ý tưởng riêng tư, cá nhân luôn muốn thoát ly
khỏi sự kiềm tỏa của tập thể. Hai, khách quan, hoàn cảnh đưa đẩy. Hoàn cảnh ở
đây chỉ chung cho toàn bộ những gì bên ngoài cá thể. Mâu thuẫn nội bộ trong mỗi
tự viện, sự đỗ vỡ tương thông giữa các thành viên thường là những lý do chính
của các cuộc chia ly, chia rẻ. Chúng bao gồm tất cả những phiền phức, rắc rối,
bất cập phát sinh trong quá trình sinh hoạt cộng đồng giữa thầy và trò, giữa
huynh đệ với nhau, thậm chí có cả trường hợp giữa tu sĩ và cư sĩ. Lý do thứ hai
nầy còn gồm các yếu tố xã hội, chính trị, kinh tế, tôn giáo tác động gián tiếp
hoặc trực tiếp lên đời sống cá nhân tu sỉ và khiến họ phải xa rời tổ ấm của
mình. Dưới áp lực mở rộng ảnh hưởng của tập thể, nhiều tu sỉ phải rời bỏ khỏi
tu viện để sống một mình ở một vùng đất mới, xa xôi hẻo lánh. Nhìn chung, dù
chủ quan hay khách quan, việc tu sỉ rời khỏi tổ chức thì trách nhiệm được quy
cho Tăng già.
Tiếp theo, ta tự hỏi tại sao hể ly chúng
là Tăng tàn, tại sao hổ rời khỏi rừng núi là chết ? Hổ : thú dữ ăn thịt, mạnh
bạo, hung dữ, chúa tể sơn lâm, thế mà khi từ bỏ môi trường sinh hoạt của mình.
Ly – sơn còn bị bại, thua các loài khác, huống gì vị Tăng sĩ vốn hiền lành chất
phát ? Một khi rời khỏi môi trường kháng
nhiễm của Tăng chúng, cá nhân tu sĩ dễ dàng bị thâm nhiễm sự ô nhiễm của thế
gian. Thiếu sự bảo vệ, kiểm soát, dạy dỗ, sách tấn khuyên can của sư trưởng,
không có sự chia sẻ, nhắc nhở của bạn đồng tu, cộng với nội lực chưa đủ mạnh để
chống chọi với sự cuốn hút của ngoại duyên, tất cả các điều này trở thành tăng
thượng duyên cho chúng ta hư hỏng. “ Chí đạo nan văn, vọng tình dị tập ”. Đi
ngược lại bản chất, sống trong môi trường độc hại, nguy hiểm, không nơi nương
tựa, không người chở che, thì hư hỏng- tàn là điều chắc chắn. Thay đổi môi
trường là chết, dù Tăng hay Hổ không những vì môi trường mới độc địa hiểm ác,
mà còn chết bởi chẳng có khả năng thích ứng với môi trường ấy. Cho nên mới khẳn
định kết luận. Tăng ly chúng Tăng tàn. Hổ ly sơn hổ bại, ly là tàn, ly là bại,
bất kể Tăng hay hổ, người hay vật , mạnh hay yếu.
Thứ đến xét tiến trình ly và tàn. Trật
tự ly rồi sẽ tàn đôi khi có thể hoán đổi, nghĩa là tàn thì chắc chắn phải ly.
Song câu châm ngôn trên có vẻ nhấn mạnh ý nghĩa thứ nhất: Tăng ly chúng thì
Tăng sẽ hư hỏng – tàn . Tuy nhiên, thực tế không phải không có trường hợp Tăng
ly chúng mà không tàn, Tăng không ly mà vẫn tàn. Ly mà không tàn là do cá nhân
có ý thức trách nhiệm cao, ly với lý do chính đáng chuyên tu, hoằng pháp vùng
sâu vùng xa. Chúng ta không cần ca ngợi nhiều những vị Tăng ly chúng mà không
tàn nhưng phải đặt biệt chú ý tình trạng Tăng không ly chúng mà vẫn tàn. Việc
sống chung với chúng không phải nhân tố độc nhất quyết định sự hư hỏng hay
thành công của cá nhân tu sỉ. Tuy nhiên, ngôi chùa cần đào tạo những Tăng sỉ đủ
tư cách và loại trừ các tu sỉ không xứng đáng. Chính những cá nhân hư hỏng cộng
trụ trong đoàn thể Tăng là những con sâu làm rầu nồi canh, là sư tử trùng thực
sư tử nhục. Nếu giáo hội không phát hiện, không quyết tâm loại trừ, thậm chí
còn dung dưỡng, thì những con sâu và trùng này sẽ phá hoại bản chất thanh tịnh
hòa hợp của Tăng, làm suy giảm đạo tâm tôn kính của tín đồ đối với Tam Bảo, đặc
biệt, lũng đoạn, gây chia rẻ sức mạnh đoàn kết trong nội bộ Tăng đoàn.
4/ Liên quan: Ngoài ra , Tăng
ly chúng Tăng tàn trực tiếp bàn đến vấn đề quan hệ giữa cá nhân và tập thể, vấn
đề đạo đức cá nhân, vấn đề chất lượng giáo dục và sinh hoạt Phật giáo trong các
tự viện, vấn đề tồn tại, phát triển và suy vong của cá nhân trong mối tương
quan với cộng đồng. Việc một tu sỉ biệt chúng
- ly – hoặc hư hỏng- tàn, không chỉ là trách nhiệm riêng của họ mà toàn
thể thành viên trong tự viện mà vị ấy cư trú đều có bổn phận. Luôn luôn có sự
tương quan, liên đới về trách nhiệm và nghĩa vụ giữa thành viên Tăng và toàn bộ
Tăng đoàn. Cá nhân tốt, vị Tăng tài đức hiển nhiên sẽ mang lại uy tín cho tu
viện nơi mà vị ấy cư ngụ, cũng vậy khi cá nhân hư hỏng, sa đọa đạo đức, chắc
chắn tập thể cưu mang cá nhân ấy bị liên lụy những ảnh hưởng xấu. Chất lượng
giáo dục trong mỗi tự viện thường quy định khả năng , tài đức của mỗi vị Tăng.
Do đó, tu sỉ muốn hành đạo yên ổn, muốn có điều kiện tốt nuôi dưỡng thánh thai,
phát triển đạo nghiệp, cần lựa chọn và sống trong ngôi chùa có môi trường giáo
dục và sinh hoạt ổn định theo đúng thanh quy giáo pháp. Ở bầu thì tròn ở ống
thì dài, chúng ta ghi nhớ điều này để ý thức tầm quan trọng của nơi ăn chốn ở.
Tăng
tàn không phải do ly hay hợp mà do Tăng không sống trọn vẹn với bản chất thiêng
liêng cao quý vốn có của mình. Vấn đề không phải ở chổ ly hay hợp mà ở chổ đời
sống của Tăng , môi trường giáo dục tự viện như thế nào, có giữ đúng thanh quy
giới luật không, có lục hòa, quan tâm và có trách nhiệm với nhau không ? Cọp
chết thảm vì không có đồng loại bảo vệ, tự bỏ núi rừng, đơn thân độc mã đối mặt
với hiểm nguy, không biết lượng sức mình. Cũng thế , trần gian hiểm ác, Tăng
tàn vì không mặc áo giáp giới luật, khô nước thiền định, thiếu gươm trí tuệ, xa
thiện tri thức, sống môi trường xấu. Cọp bại chỉ phí một đời nhưng Tăng tàn sẽ
oan uổng nhiều kiếp. Tăng tàn thì đạo suy, đó là điều chắc chắn. Khi con người
sa sút đạo đức thì họ xem thường đời sống thánh thiện. Cho nên, vạn bất đắc dĩ
mới ly. Nếu thế thái nhân tình bắt buộc phải ly, thì chúng ta tùy duyên ly
trong hòa hợp và thanh tịnh, thống nhất ý chí và thắt chặt đôi tay. Nghĩa là,
chấp nhận có khoảng cách vật lý nhưng luôn luôn gắng bó trên quan điểm tư tưởng
và hành động. Song nếu hợp trái nghĩa với ly, có tính cách bè phái, tôn phái,
đảng phái, môn phái chống báng nhau thì đó là đại ly, là hai đạo tập thể, là đàn sâu là bầy sư tử trùng.
Bởi vì, chia rẻ là dấu hiệu của suy tàn, đổ vỡ, thống nhất là biểu hiện của sức
mạnh và trường tồn. Dù ly hay không ly, bản chất của Tăng mãi mãi là thanh tịnh
và hòa hợp. Thuận với bản chất ấy thì
sống, sống xứng đáng với địa vị Chúng Trung Tôn . Nghịch bản chất ấy thì sống cũng
coi như đã chết, chết trong sự nguyền rủa vì hại đạo hại đời, hại mình hại
người.
Tình hình chính trị, bối cảnh chế độ
lịch sử, thực tế xã hội không ngừng thúc đẩy chúng ta đi từ sự phân ly này đến
sự phân ly khác. Cá nhân luôn có xu hướng xoay theo vòng xoay ly tâm của những
ràng của tập thể. Đó là tổng thể đời sống vô cùng phức tạp mà Tăng già cần tỉnh
táo nhìn ngắm lại bản thân mình, nội bộ tổ chức mình. Nhìn ngắm quan sát kỷ
để Tăng già biết trong nồi canh có bao
nhiêu con sâu, biết trên lưng sư tử có mấy con bọ chét, nhằm vạch ra hướng đi
nhất quán với chánh pháp. Biết chấp nhận chia ly với cái đầu thông minh và đôi
tay nhất thống thì không sợ tàn, không nao núng bại. Bao giờ Phật giáo cũng chủ
trương nếp sống tập thể song song với việc phát triển cá nhân cho Tăng ni Phật
tử trong môi trường Giới, Định, Huệ.
( Trích từ Tập San
Pháp Luân số 57 11- 2008 Chánh Trí )
0 nhận xét:
Đăng nhận xét