PHẬT
HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG
Vị vua duy nhất của Việt Nam quy y cửa Phật: 2 lần từ chối ngai vị,
xuất gia ở tuổi 41. Ông là 1 trong 14 vị vua của nước Đại Việt, được đánh giá
cao về tâm và tầm. Là người có công lớn trong việc bảo vệ hòa bình và mở rộng
lãnh thổ nước Đại Việt.
Nhưng vị trí đứng trên vạn người không thể giữ chân được người muốn
hướng Phật, ông quyết từ bỏ ngôi vị, quy y cửa Phật. Vua Trần Nhân Tông – Phật
Hoàng Trần Nhân Tông tên húy là Trần Khâm sinh ngày 11/11 âm lịch năm Mậu Ngọ
niên hiệu Thiệu Long năm thứ 1 (tức 7/12/1258). Ông là con trai trưởng của Trần
Thánh Tông và Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng hậu Trần Thị Thiều. Theo Đại Việt Sử
ký Toàn Thư, ngay từ khi sinh ra Trần Khâm đã có tướng mạo rất phi phàm, có màu
sắc hoàng kim, nước da vàng sáng rất đẹp nên vua cha và ông nội – Thái thượng
hoàng Trần Thái Tông đã gọi ông là Kim Tiên đồng tử.
Vào năm 1274, khi 16 tuổi, Trần Khâm được phong làm Hoàng Thái tử.
Đã 2 lần ông từ chối ngôi vị và thuyết phục vua cha lập em ông lên thay nhưng
vua cha không đồng ý. Sau đó, vua cha đã sắp xếp hôn lễ cho Trần Khâm lấy trưởng
nữ của Nguyên Từ Quốc Mẫu (tức Khâm Từ Hoàng hậu sau này). Hai vợ chồng sống
trong cảnh vui hòa, hạnh phúc nhưng tâm của Trần Khâm vẫn luôn ưa thích sự tu
hành. Thậm chí có lần Trần Khâm trốn lên núi Yên Tử ẩn tu, vua cha hay tin sai
các quan đi tìm, bất đắc dĩ ông phải quay về cung thành. Trần Khâm chấp nhận
ngôi Thái Tử nhưng ông vẫn duy trì nếp sống thanh tịnh trên tinh thần Phật
giáo. Ông cũng dành nhiều thời gian đàm đạo với thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ (tức
Hưng Ninh vương Trần Quốc Tung – anh họ của Trần Thánh Tông) và tôn xưng vị này
làm thầy mình. Khi trưởng thành, Ngài được
vua cha đặc biệt quan tâm, nhằm chuẩn bị cho việc kế tục ngai vàng, chấn hưng Đại
Việt. Năm 21 tuổi (năm 1279), Trần Khâm lên ngôi Hoàng đế, hiệu là Trần Nhân
Tông, tự xưng là Hiếu Hoàng. Vào năm 1279 đức vua Trần Nhân Tông đổi niên hiệu
là Thiệu Bảo, kế nghiệp các tiên đế nhà Trần. Được biết, sau khi lên ngôi, vua
Trần Nhân Tông đã đưa ra rất nhiều chính sách khoan hòa nhân dân, lấy đức mà trị
vì Đại Việt, chăm lo cho dân chúng, xây dựng quốc gia hòa bình thịnh trị .
Sau 15 năm trị vì từ (8/11/1278 – 16/4/1293), vua Trần Nhân Tông
đã nhường ngôi cho con trai là Trần Thuyên ( tức vua Trần Anh Tông) và lên ngôi
Thái thượng hoàng, chuẩn bị con đường xuất gia tu hành. Đến tháng 10/1299, Trần
Nhân Tông quyết định xuất gia đi tu ở núi Yên Tử (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh)
khi đó ông 41 tuổi. Tại đây, ông lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu-đà và sáng lập
nên dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Sau đó, ông lập chùa, cất tinh xá, khai giảng để
tiếp tục độ chúng Tăng, vì vậy học chúng đua nhau đến rất đông. Sau đó, Ngài đến
chùa Phổ Minh ở Phủ Thiên Trường (nay thuộc tỉnh Nam Định) lập giảng đường, giảng
dạy mấy năm. Ngài lại vân du đến trại Bố Chính lập am Tri Kiến (nay thuộc tỉnh
Quảng Bình) rồi ở đó. Khi tu tập trên núi Yên Sơn thành tựu được sự giác ngộ,
Ngài xuống núi đi hoằng dương Phật Pháp, làm lợi lạc cho chúng sinh.
Năm 1308, sau nhiều năm xuất gia tu tập, Thượng hoàng Trần Nhân
Tông (hiệu là Trúc Lâm đại sĩ) viên tịch tại am Ngọa Vân, núi Yên Tử. Với những
đóng góp to lớn của Trần Nhân Tông cho đạo pháp và dân tộc, ông đã được người đời
kính trọng, sau được suy tôn là Phật Hoàng Trần Nhân Tông (hay còn gọi là vua
Phật Việt Nam).
(Nguồn:
theo sở hữu trí tuệ)
{¯{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét