MỘT
SỐ CỤM TỪ LIÊN QUAN ĐẾN PHẬT GIÁO
Trong
nhân gian có những cụm từ, những câu nói do một số người đời nói ra, như những câu tục ngữ ca dao, được
tiếp tục truyền qua nhiều thế hệ trở thành “ châm ngôn” hay thậm chí còn được
cho là “Phật ngôn”. Do đó, để hiểu đúng những câu hay cụm từ này được truyền miệng
lại nhằm xác định giá trị của chúng để người Phật tử có những ứng xử thích đáng
với những lời nói ấy trong đời sống thực tiễn hằng ngày. Ở đây, nêu một số câu
và cụm từ phổ biến để phân tích và luận giải, mục đích là chỉ ra những điểm ưu
và sự hạn chế của lời nói ấy nhằm giúp cho người học Phật hiểu đúng về đạo Phật.
Trước
tiên, cần xác định rằng tất cả những câu, nhóm từ trích ra dưới đây không phải
do chính Đức Phật nói mà do một số người hữu danh hay khuyết danh nhận xét dựa
trên bối cảnh xã hội hay những ý theo lời dạy của Phật. Do đó, những lời nói ấy
không thể xem là “Phật ngôn” và cũng không thể xem là giáo lý “chuẩn” của đạo
Phật. Cần xác định để khỏi nhầm lẫn giữa lời Phật dạy và những phát ngôn của
các thế hệ sau. Hai nhóm vấn đề sẽ được đề cập dưới đây.
Những
câu, nhóm từ phản ảnh các hiện tượng xã hội.
Nhóm
thứ nhất phản ảnh sự sinh hoạt chốn thiền môn có ảnh hưởng đến sinh hoạt cộng đồng
xã hội. Gồm có bốn câu, nhóm từ được trích luận bàn sau đây: a/ Cửa chùa mở rộng
– b/ xài tiền chùa- c/ nhất tu thị, nhị tu gia, thứ ba tu chùa - d/ Dù xây chín
bậc phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người.
Cửa
chùa mở rộng:
Từ bi và Trí tuệ trong đạo Phật được ví như đôi cánh của một
con chim. Phật giáo thiếu một trong hai yếu tố này thì không thể lưu truyền khắp
nơi, cũng giống như con chim thiếu một cánh không thể bay cao bay xa được.
Trong quá trình truyền đạo, trí tuệ và đặc biệt là từ bi được thể hiện qua các
hành động của các cá nhân hay qua các hoạt động đoàn thể Phật tử. “Cửa chùa rộng
mở” là cụm từ phản ảnh tinh thần trên.
Cụm từ này được hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau khi đứng trên
phương diện chủ thể hay khách thể. Trên phương diện chủ thể, cụm từ có thể hiểu
qua ba mặt. Về mặt vật lý (nghĩa đen), cánh cửa chùa không bị đóng kín mà luôn
luôn được mở hàng ngày để mọi người có thể vào chùa được. Về mặt thái độ, chùa
(Tăng, Ni) luôn đón tiếp tín đồ Phật tử, khách thập phương và tất cả thành phần
trong xã hội, không phân biệt giai cấp, chủng tộc, sang hèn, giàu nghèo… Về mặt
mục đích tu tập, chùa luôn mở rộng lòng tha thứ và đón nhận những người biết
sám hối tội lỗi, biết quay đầu hướng thiện làm lại cuộc đời, biết cải tà quy
chánh. Nếu các chùa thiếu sự phục vụ (mở cửa) thì họ đang chưa làm tròn bổn phận
thiêng liêng theo tinh thần từ bi của đạo Phật.
Trên
phương diện khách thể, chùa nơi quay về cho quần chúng. Người đến chùa đủ thành
phần gồm Phật tử và không phải Phật tử, người thiện kẻ ác, người sang kẻ nghèo
và do đó mực đích của họ cũng rất đa dạng. Có thể nói không phải tất cả mọi người
đến chùa đều vì mục đích học hỏi giáo lý tu tập hay để làm điều thiện nói
chung, mà vẫn có những thành phần chỉ đến chùa vì mục đích bất thiện. Với những
người vì mục đích thiện thì sự có mặt của họ ở chùa là rất cần và rất đáng khuyến
khích. Tuy nhiên, với những người vì mục đích bất thiện như gây sự hay trộm cắp
tài sản của chùa thì sự có mặt của họ là sự tổn thất và bất hạnh cho nhiều người.
Bảo quản và phục vụ là hai trách nhiệm các chùa phải thực hiện.
Chùa là của bá tánh nhưng cần phải có “chủ” để trông nom, cũng như đất nước là
của nhân dân nhưng phải có người đại diện để điều hành. Do đó, chùa (chủ thể) luôn
mở rộng cho mọi người (khách thể) đến chùa nhưng chủ thể không thể không thận trọng và thậm chí khước từ với những người
không có tâm hướng thiện (tạm gọi là không đủ duyên lành). Vì lý do đó, tuỳ
hoàn cảnh cụ thể các chùa vẫn phải bất đắc dĩ đóng cửa tạm thời như khi chủ thể
đi làm Phật sự xa hay thiếu người thay thế
trông nom. Chùa cũng phải đóng cửa (không tiếp) với thành phần bất hảo
mà chùa không thể độ được để bảo vệ chính ngôi chùa. Việc lợi dụng lòng từ bi của
đạo Phật để làm điều bất thiện phải được hiểu theo nghĩa tương đối, thực tiễn
hơn là tuyệt đối hoá một cách cào bằng. Nếu không, nó sẽ rơi vào tình trạng tuy
tiện như ý của cụm từ thứ hai.
“Xài
tiền chùa”
Có lẽ người Phật tử không
hãnh diện gì khi từ chùa (chỉ nơi sinh hoạt tu tập của Tăng Ni và cư sĩ) được
dùng trong nghĩa “xài tiền chùa” hay “xài chùa” được sử dụng lâu nay. “Xài
chùa” được hiểu là sự chi tiêu tiền của một cách phung phí, tuỳ tiện nhằm thoả
mãn lòng tham lam ích kỷ hơn là vì nhu cầu thực sự chính đáng. Nó cũng có nghĩa
là hành động sử dụng tài vật không phải là sở hữu hợp pháp của người đang sử dụng
nó. “Xài chùa” còn có nghĩa là miễn phí trong trường hợp cho phép, như ăn không
cần trả tiền, tự do lấy, tự do ăn v.v.
Sự
thật, không có tiền nào gọi là “tiền chùa” vì tài sản nào suy cho cùng đều có
chủ của nó. Tuy nhiên, do quy định luật pháp còn sơ hở và lòng tham của con người,
tài sản của nhà nước hay đúng hơn là của nhân dân và tài sản của các cá nhân bị
đánh cắp một cách khéo léo bằng cách lách luật hay thậm chí phạm luật nhưng khó
bị truy tố. Từ đó, tài sản bị sử dụng theo cách này được gọi là “xài tiền
chùa”. Nhưng tại sao người ta lại dùng từ “xài chùa” mà không dùng từ “ xài đền,
xài miếu” hay xài gì khác? Theo thiển ý,
từ chùa được dùng vì chùa đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hoá tín
ngưỡng của người dân xưa nay và sự từ bi của “chùa” cũng dễ bị lợi dụng để phục
vụ cho lợi ích cá nhân.
Theo nghĩa của từ, tiền chùa là tài của chùa hợp pháp do thập
phương bá tánh tức nhiều người đóng góp, cúng dường. Vì vậy, nếu tiền chùa được
chi tiêu không cẩn thận và không đúng mục đích thì người sử dụng tiền ấy phạm
giới luật, phải chịu nhân quả. Giới luật nhà chùa dạy rất rõ về việc sử dụng
tài sản của chùa. Ở trong chùa, tất cả việc ăn uống, tiêu dùng dù nhỏ nhặt đều
phải tiết kiệm, phải giữ gìn vì đó là mồ hôi nước mắt của mọi người. Ví dụ, người
tu sĩ, khi ăn cơm, phải nhớ đến công ơn của những người nông dân lao động vất vả;
khi mặt áo, phải nhớ công ơn người dệt vải…để xét sự tu tập của bản thân như thế
nào mà thọ nhận phẩm vật và tìm cách đền ơn. Giới luật nhà Phật dạy rõ nhưng tại
sao từ “xài chùa” với ý nghĩa không tốt lại xuất hiện? Phải chăng giới luật đã
có những ý thức thực thi còn yếu? Phải chăng việc quản lý tài sản chùa chùa
chưa được minh bạch dẫn đến việc lạm dụng xảy ra đến nỗi nó trở thành lệ xấu
qua từ “xài chùa ?”.
Thực
ra, “xài chùa” là một hành vi phạm pháp lách luật, một hành vi trộm cắp tài sản
thuộc giới thứ hai trong Phật giáo. Nó phát xuất từ lòng tham lam ích kỷ hẹp
hòi, tự cho mình có quyền hưởng thụ trên tài sản công hay của người khác. Ỷ quyền,
cậy thế, tham nhũng, lãng phí là những hình thức “xài chùa” tài sản của nhân
dân, của bá tánh, vì tiền chùa do mọi người đóng góp, tiền của nhà nước do dân
đóng thuế. “Xài chùa” bản quyền, “xài
chùa” các ca khúc nhạc… cũng là những hình thức ăn cắp tài sản của người khác.
Khi
ý thức và lòng tự trọng của con người chưa cao, pháp luật chưa nghiêm minh và
lòng tham lam ích kỷ quá lớn thì “xài chùa” vẫn còn nhiều đất sống. Hành vi ấy
làm cho đất nước nghèo nàn, niềm tin xói mòn trong mỗi người dân.
Tiếp theo: Những câu nói về sự tu hành trong Phật giáo (Phần2)
Nhóm thứ hai nói về phương cách tu tập của người học Phật như sau:
Thứ nhất là tu tại gia, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa.
Ý nghĩa câu nói trên là chỉ ra cấp độ thử thánh khác nhau ở ba môi
trường tu tập. Xét về không gian tu tập, có người cho rằng tu ở nhà khó nhất vì
thử thách nhiều nhất, tu ở chợ khó nhì và tu ở chùa ít khó nhất và ít thử
thách. Từ đó, họ kết luận tu ở nhà, ở chợ mới giỏi, còn tu ở chùa thì quá dễ vì
ít ai làm phiền. Lý luận nghe có vẻ hợp
lý nhưng sự thật thì hiếm thấy có người nào tu ở nhà và ở chợ đắc đạo đâu.
Trong khi đó, các thánh tăng và cao tăng đều tu ở chùa mà thành.
Câu nói trên nếu chỉ áp dụng cho Phật tử tại gia thì hoàn toàn hợp
lý. Bởi vì, người cư sĩ đến chùa tu là dễ nhất vì được hướng dẫn phương pháp tu tập và được thực tập cùng với
các bạn đồng tu. Còn tu ở chợ và ở nhà dĩ nhiên là khó hơn vì người cư sĩ phải
va chạm nghịch cảnh dễ sanh phiền não và không có người hướng dẫn tu tập.
Xét
về thời gian tu tập, câu nói trên cũng dành cho người tại gia. Nghĩa là, người
tại gia phần lớn dành thời gian ở gia đình, thứ đến ở chợ hay nơi làm việc và
cuối cùng là ở tại chùa. Dựa trên thời gian phân chia vừa nêu, người Phật tử sẽ
dành thời gian tu tập ở nhà nhiều nhất, kế đến là ở chợ và sau cùng là ở chùa.
Sau khi được hướng dẫn phương cách tu tập tại các chùa, người Phật
tử trở về gia đình tất yếu phải tu tập bản thân và hướng dẫn người thân trong
gia đình cùng tu tập để hoàn thiện nhân cách để xây dựng một gia đình nề nếp, hạnh
phúc. Nho giáo gọi là tu thân, tề gia. Đó là nền tảng để họ tiếp tục tạo dựng mối
quan hệ tốt trong xã hội hoặc đối nhân xứ thế hay (tu chợ). Đó cũng là nền tảng
để người tại gia tiến xa hơn trên con đường
giác ngộ giải thoát như những bậc xuất gia đã và đang thực hiện (tu chùa).
Như vậy, đối tượng áp dụng cho câu nói trên là người tại gia. Viện
dẫn câu nói trên áp dụng chung cho mọi người là không chuẩn và đôi khi sinh tâm
ngã mạn, cố chấp. Viện dẫn tu ở nhà, ở chợ là tu giỏi (nhưng thực chất chưa tu)
để không cần đến chùa học hỏi, tu tập là một sự thiệt thòi lớn, như người tự
cao không cần đến trường học vậy. Không học làm sao nhận ra sự đúng sai trong câu sau:
Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phước cứu cho một người.
Tạo công đức, gieo trồng phúc báu là hạnh tu mà bất cứ hàng Phật
giáo nào cũng phải thực tập. Trong đó, cách tạo phước phổ biến nhất là xây
chùa, xây tháp (phù đồ)… hay làm từ thiện, cứu đói, giúp người…(cứu người). Xây
phù đồ hay cứu người đều có giá trị riêng của nó và không thể so sánh giá trị
việc này hơn việc kia một cách chung chung, phiến diện.
Làm phúc cứu cho một người được hiểu là hỗ trợ vật chất cho những
người nghèo khó, cơ nhỡ… Việc làm này có ý nghĩa cứu người thực sự trong hoàn cảnh
thiên tai, nạn đói, động đất, sóng thần, bịnh dịch v.v..vì nếu không kịp thời cứu
giúp họ sẽ chết. Các trường hợp khác, hỗ trợ vật chất để giúp những người nghèo
là cần nhưng chưa đủ vì con người không chỉ sống nhờ vật chất để sống mà còn có
đời sống tinh thần.
“Xây phù đồ” có nghĩa là xây tháp hay rộng ra là xây chùa, tạo tượng,
nơi thờ Phật và tạo không gian tu học cho mọi người. Chùa từ lâu đã là nơi hướng
dẫn tín đồ tu học. Nhờ tu học, con người bớt tạo nghiệp ác và chuyển hoá khổ
đau, đạt được an vui. Như vậy, xây chùa cũng là đang cứu người, nhưng không phải
trên phương diện vật chất mà là phương diện tinh thần. Đây mới thật sự là cứu
người theo đạo Phật.
Ngày nay, có nhiều người không có thiện cảm với Phật giáo thường lấy
câu nói trên để phản bác những ngôi chùa lớn ở Việt Nam. Thực ra, các chùa ở Việt
Nam còn nhỏ bé hơn nhiều so với các chùa ở
các nước khác như Trung Quốc, Thái Lan. Miến Điện …, và nhỏ hơn nhiều so
với các cơ sở tôn giáo khác như nhà thờ, thánh đường …
Hơn
nữa, cứu người không phải chỉ đem ít vật chất tới cho họ là xong mà quan trọng
hơn là giúp họ cách tự lực sinh sống cũng như hướng dẫn họ có đời sống tinh thần
hướng thiện, an lạc. Theo đạo Phật, giúp con người nhận ra “Khổ và con đường diệt
khổ” để học thực tập, sống an lạc đời này và đời sau mới thực sự là cứu người.
Đây là cách Bậc Đạo sư (Đức Phật) cứu độ chúng sanh.
Ngoài ra, cả hai việc làm trên không có gì mâu thuẫn nhau nên
chúng vẫn có thể thực hiện song song, hay tuỳ hoàn cảnh mà ưu tiên việc nào trước.
Việc giúp một người bằng cách hỗ trợ cho một ít vật chất mà cho là phúc nhiều
hơn xây “tháp chín tầng” hay xây một ngôi chùa là một cách so sánh khập khiểng.
Đây không phải là lời dạy của Phật giáo.
Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân ngã chưa xả.
Nhiều người cho rằng câu
nói trên do Đức Phật dạy. Có thể, họ dựa trên tinh thần từ bi, kham nhẫn trong
đạo Phật vì câu nói ấy không tìm thấy từ lời dạy của Đức Phật trong các kinh.
Do đó, hiểu đúng ý nghĩa câu nói trên giúp người học Phật ứng xử thích hợp
trong những hoàn cảnh bị oan. Theo Từ điển Hán Việt, oan ức nghĩa là “chịu ô nhục,
hoặc bách hại một cách oan uổng”.
Xuất xứ của câu nói ấy là từ Luận bảo Vương tam muội, còn gọi là Bảo
Vương tam muội niệm Phật trực chỉ do Sa môn Diệu Hiệp soạn. “ Mười điều tâm niệm”
là tên gọi do Hoà thượng Thích Trí Quang đặt thay cho tên nguyên gốc là “Mười hạnh
không cầu”. Một số người đã sửa lại nội
dung câu nói trên thành “oan ức không cần biện bạch vì làm như vậy là hèn nhát
mà trả thù thì oán đối kéo dài”, làm cho ý nghĩa nó trở nên tiêu cực hơn.
Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu cách Đức Phật ứng xử với trường hợp
bị vu khống được ghi lại trong kinh Ưu-đàm-bà-la -sư -tử- hống. Bài kinh ghi lại
câu chuyện du sĩ Nigrodha vu khống và hạ
thấp Sa môn Gotama ( tức Đức Phật). Nigrodha nói với mọi người rằng Đức Phật
không giỏi điều khiển chúng, không đủ sức đối thoại, trí tuệ bị hư hoại…Khi biết được sự việc, Đức Phật đã hỏi lại du sĩ
Nigrodha để xác nhận sự thật và giảng dạy giáo pháp của Ngài cho hội chúng nghe
để tự đánh giá. Từ đó du sĩ Nigrodha đã thừa nhận là ông ngu ngốc, si ám và bất
thiện. Trước hội chúng, ông xin sám hối Đức Thế Tôn. Nhân đó, Đức Phật cũng trình bày lý do Thế Tôn thuyết
pháp không phải vì muốn có đệ tử hay muốn người khác bỏ truyền thống, mà vì muốn
mọi người từ bỏ hay diệt trừ các pháp bất thiện đưa đến khổ đau, đạt được an lạc
hiện tại và tương lai. Bài kinh cho thấy Đức Phật đã biện bạch, giải thích
hơn, Đức Phật đã làm sáng tỏ sự việc một
cách tốt đẹp với tâm hoàn toàn thanh tịnh, không chút hơn thua, oán thù.
Biện bạch hay không cần biện bạch khi oan ức xảy ra phải tuỳ vào sự
việc cụ thể. Ví dụ nếu có thông tin vu khống hay hiểu sai về Phật giáo được
truyền tải khắp nơi thì việc biện bạch để làm sáng tỏ vấn đề là điều phải làm
vì nó ảnh hưởng đến nhiều người. Tuy nhiên, trong trường hợp nó ảnh hưởng đến
cá nhân và không gây tổn hại thì oan ức có thể không cần biện bạch. Khi ấy, người
bị oan có thể xem oan ức là cơ hội để thực tập tính kham nhẫn và thể nghiệm
giáo lý vô ngã.
Khi bị oan ức nên tránh lối suy luận theo kiểu đổ lỗi quá khứ. Cho
rằng kiếp trước gây nhiều nghiệp ác nên kiếp này gặp nhiều oan ức thì không thoả
đáng vì không ai có thể biết quá khứ đã làm gì, trong khi nguyên nhân hiện tại
có thể truy tìm được. Do đó, thay vì đổ lỗi và chịu oan ức một cách đè nén, người
bị oan nên tìm nguyên nhân rõ ràng và nỗ lực minh oan bằng cách khôn ngoan và
thích hợp nhất. Nên nhớ rằng, dù lúc bị oan hay khi đã minh oan, không được
nuôi dưỡng tâm hơn thua và hận thù.
Lời kết: Những lời luận bàn về các câu, cụm từ vừa nêu chắc chắn
không thoả mãn tất cả mọi người. Tuy nhiên, nó giúp cho người học Phật phần nào
đánh giá được sự hạn chế của những câu tục ngữ hay châm ngôn trên. Qua sự đối
chiếu và so sánh giữa những lời Phật dạy gốc/ nguyên chất với lời dạy của các vị
thuộc thế hệ sau là cần thiết để hiểu và thực hành đúng theo giáo lý Phật giáo
./. Trích: NSGN số 244- 7-2016. Của
Thích Hạnh Chơn.
{¯{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét