Chủ Nhật, 7 tháng 12, 2025

LÒNG VỊ THA VÀ SỰ BẤT CẬP CỦA VỊ THA

 

LÒNG VỊ THA VÀ SỰ BẤT CẬP CỦA VỊ THA

          Chúng ta thường nói nhiều về tính tương trợ, về lòng nhân ái, vị tha đối với muôn người, về cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, nhưng ác pháp vẫn luôn xảy ra, vì chúng ta coi thường giáo lý Nhân quả mà Phật đã dạy trong kinh điển, vì cách giáo dục và xử lý của chúng ta tạo điều kiện tham, sân, si có cơ hội trong mỗi người phát triển mạnh. Chính vì thế, việc tốt có nhiều khi là nhân để  các ác pháp xuất hiện. Chúng ta vá chỗ này, lại rách chỗ kia. Những việc làm mang tính cách vị tha có khi chỉ là trá hình của những vụ lợi riêng tư. Hay giả dạng nghèo khó, khó khổ để mong chờ lòng thương người khác, nhưng khi được giúp đỡ hỗ trợ xong, họ lại quay lưng trở mặt. Lúc này thiện pháp trở thành nhân  của ác pháp. Lúc nghèo thiếu năn nỉ xin vay mượn xong rồi quỵt luôn không ngó mặt đó là những hạng người vô ơn, qua cầu rút váng. Những người đó họ không tin Nhân quả và không sợ nhân quả. Nhân quả xoay vần, không thể chạy trốn đâu cho khỏi, thời vận hết nhân quả xấu sẽ trổ ra, vì nhân quả trả vay không bao giờ sai lệch. Cho nên, thứ mà chúng ta gọi là thiết thực chưa hẳn là thiết thực dù nó có thiết thực trong một phạm vi nào đó, trong một giai đoạn nào đó.

           Trong kinh tạng có một câu chuyện về lòng vị tha như sau: Thời vua Quán Đảnh Sát đế lỵ, quốc gia không được hưng thịnh như các đời vua trước. Vua hỏi các cận thần thì được biết vua không cai trị  nước theo Chánh pháp của Thánh vương mà theo ý mình. Từ đó vua bắt đầu cai trị quốc gia theo Chánh pháp nhưng riêng mục bố thí thì không. Nghèo đói lan rộng và trộm cắp nẩy sinh.

          Khi kẻ trộm bị bắt, vua hỏi vì sao đi trộm cắp? Được trả lời: “vì không có gì để sống”. Vua nghe vậy, liền cho hắn tiền bạc và dặn hãy dùng nó để nuôi  dưỡng gia đình, bản thân cũng như bố thí, cúng dường v.v… Bất cứ kẻ ăn trộm nào được dẫn tới, nhà vua đều làm như thế. Dân chúng đồn nhau: “Kẻ nào trộm cắp tiền bạc của người khác, đều được vua  cho tiền bạc”. Thế là nghề ăn trộm tăng thạnh. Vua biết tin như vậy, mới suy nghĩ: “Trộm cắp mà được ta cho tiền thì trộm cắp càng tăng trưởng. Nay ta phải ngăn chận triệt để”. Nhà vua ra lệnh, ai trộm cắp sẽ bị  chặt đầu.

          Khi lệnh được ban hành thì xã hội lại nẩy sinh vấn đề mới. Đó là hình thành nên những tên ăn trộm được trang bị bằng dao kiếm. Chúng giết sạch những người bị chúng ăn trộm để không còn ai nhận diện. Từ đó kéo theo những việc phi pháp khác. Do những việc như thế mà tuổi thọ loài người càng giảm mạnh, người sống trái đạo được tán dương, người người sát hại lẫn nhau, ác ý lẫn nhau,  sát tâm mãnh liệt, người trong gia đình không còn thân thiện với nhau v.v…. Hết thảy đều do thiếu cái nhìn mà  Như Lai đã nói trong kinh điển.

          Pháp cúng dường của Bồ tát:

          Hai từ Bồ tát và chúng sanh, hiểu theo nghĩa “hữu tình giác” và “hữu tình chưa giác”. Bồ tát và chúng sanh nói đây được tính trên từng niệm. Vì thế, không hẳn trong một người chúng ta cho là chúng sanh không có niệm Bồ tát. Trong một người chúng ta cho là Bồ tát không hẳn không có niệm chúng sanh. Phân, chỉ để dễ phân biệt  vấn đề, không có ý đề cao hay chê bai.

          Trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm nhập Bất tư nghì giải thoát cảnh giới Phổ Hiền hạnh nguyện, Bồ tát Phổ Hiền nói với Thiện Tài cùng đại chúng rằng: “Thiện nam tử! Trong các thứ cúng dường, pháp cúng dường là hơn hết. Pháp cúng dường là: Tu hành đúng theo lời Phật dạy để cúng dường, làm lợi ích cho chúng sanh để cúng dường. chịu khổ thế cho chúng sanh để cúng dường, nhiếp thọ chúng sanh để cúng dường, siêng năng tu tập căn lành để cúng dường, không bỏ hạnh Bồ tát để cúng dường, chẳng rời tâm Bồ đề mà cúng dường….  Trong 10 pháp này, “Tu hành đúng theo lời Phật dạy’ và “siêng năng tu tập căn lành” mang tính tự lợi. “Làm lợi ích chúng sanh”, “ Chịu khổ thay thế chúng sanh” và “nhiếp thọ cúng sanh” thuộc lợi tha. Phân như vậy nhưng lợi tha không lìa tự lợi.

          Có lẽ, ít có đạo giáo nào dạy môn đồ của mình chịu khổ thế cho chúng sanh v.v…. lấy đó làm pháp cúng dường, nhưng Phổ Hiền đã nói về hạnh nguyện của mình cũng như tất cả các Bồ tát là như vậy. Thì biết, tâm vị tha mà đạo phật nói đến không chỉ dừng lại ở mặt thiết thực trong hiện tại, có những thứ thiết thực sâu xa và dài lâu hơn nhiều so với cái nhìn của phàm phu, chúng ta không thể hiểu thấu.`

           Tu hành đúng theo lời Phật dạy:

          Hiện nay, thiện nghiệp trở thành cái nhân của ác nghiệp hay trở thành sự trá hình của những vụ lợi riêng tư, đều bắt nguồn từ ba thứ tham, sân, si. Vì bị vô minh chi phối, không hiểu về thực lý Duyên khởi đang chi phối thế giới này thế nào, nên chúng ta mới coi các việc thiện như một phương tiện để thực thi những tham muốn vị kỷ của mình. Chính vì thế, nguyện đầu tiên mà một vị Bồ tát phải làm, dó là tu hành đúng theo lời Phật dạy. Chỉ khi tu hành đúng theo theo lời Phật dạy thì chúng ta mới không vướng vào những điều mà người thế gian hay vướng trong việc làm lợi ích cho người. Việc lợi tha mới được viên mãn.

          Muốn tu hành đúng theo lời Phật dạy thì trước hết  phải học, phải suy ngẫm những gì Như Lai đã nói trong kinh luận. Chắc không có tôn giáo nào có phần kinh luận nhiều như Phật giáo. Bởi giáo pháp của Như Lai do ứng cơ mà thành tựu. Chúng sanh có bao nhiêu bệnh thì có bấy nhiêu pháp. Vì thế, kinh luận nhiều vô kể. Nhiều như thế, nhưng mục đích cũng chỉ là giúp chúng sanh nhận ra thực lý đang chi phối thế giới này, giúp chúng sanh tiêu trừ tận gốc ba thứ tham, sân, si đã huân tập từ vô thời vô thủy và cuối cùng là nhận ra được bản chất thật của các pháp, trong đó có thân và tâm mình.

          Vì sao phải tiêu trừ tham, sân, si ? – Vì tham thì thiện nghiệp trở thành cái nhân của ác nghiệp. Vì tham thì thiện nghiệp chỉ là trá hình của những vụ lợi riêng tư v.v.. Với một tâm dễ sân hận, chúng ta khó tiếp cận được với người, để việc lợi ích cho tha nhân được tốt đẹp, cũng không đủ tâm mềm mỏng để làm lợi ích cho hàng hạ căn. Nghĩa là, tham sân còn nhiều, chúng ta không thể nào thực hiện nổi lời nguyện mà Bồ tát Phổ Hiền đã nói:  “:Chịu khổ thế cho chúng sanh” lấy đó làm pháp cúng dường. Vì thế, cần phải tiêu trừ tham, sân, si.

          Thứ hai, với giáo pháp của Như Lai, không tiêu trừ tham dục và sân hận, chúng ta không thể tiếp cận được với phần thâm pháp mà Như Lai đã nói. Có thể với phần thô của Duyên khởi, là phần dạy nhân quả ở thế gian, tham sân còn chúng ta vẫn có thể tiếp thu được nó, nhưng muốn tiếp cận được với phần giáo lý Duyên khởi thâm sâu, tham sân phải nhạt mỏng thì thực tánh của Duyên khởi mới được hiển bày. Vì chỉ khi nhận ra được thực tánh của vạn pháp, chúng ta mới có thể sử dụng được “ý sanh thân” mà kinh Lăng Già đã nói. Tự lợi mới tròn đầy, lợi tha mới viên mãn. Vì thế, cần phải bào mòn tham, sân, si. Nói chính xác là cần phải nhận ra  thực tánh của tham, sân, si.

          Cho nên, học hạnh Bồ tát mà không học để hiểu những gì Như Lai đã nói, là một thiếu sót rất lớn của kẻ tu đạo. Học mà không hành thì có khi trên sự, mình lại đi ngược với những gì Như Lai đã nói. Tham dục hay sân hận là chủ động ở mỗi người. Chỉ cần ngay lúc đó không tham hay sân thì mọi thứ khác đi, việc gì mà phải học. Dù học cho nhiều mà ngay lúc đó không chịu làm chủ hành vi của mình thì cũng như không. Nói ra đúng nhưng chưa phải là tất cả. Vì nếu không học thì không thể biết tham sân là xấu uế để mà trừ bỏ. Không học thì không biết tai hại của tham sân. Và nếu không học thì chúng ta không thể biết thâm tâm mình bị chi phối bởi một thứ mà chúng ta chưa ý thức hết về nó, đó là nghiệp hay tập.

          Chúng ta không phải chỉ sống ở một kiếp này. Đã từ vô lượng kiếp về trước. Tham và sân được huân tập và tích tụ rất nhiều trong tạng thức. Chính vì sự tích tụ đó mà đụng duyên, mình không thể làm chủ hành vi của mình. Vì tham sân một khi tích tụ nhiều thì nó sẽ tạo ra một lực, khiến khi đủ duyên, mình không còn làm chủ được bản thân. Không còn nhớ hay nghĩ gì đến thiện pháp khi duyên đã đầy đủ trước mắt. Chính vì tham sân có lực mà mọi suy nghĩ của mình trở thành lệch lạc. Suy nghĩ đã lệch lạc thì tham sân càng tăng thạnh. Huân vào tạng thức càng nhiều thì tham sân càng có lực lớn hơn vào những kiếp sau, tà kiến càng tăng thạnh.

          Học pháp của Như Lai, chính là để biết vì sao không nên tham hay sân. Là lúc chúng ta bắt đầu ý thức về thiện nghiệp, lấy ý thiện làm chủ lực trong mọi hành động của mình. Nó góp phần khá lớn trong việc giúp chúng ta làm chủ bản thân. Giáo pháp của Như Lai nói đến nhân quả thế gian và xuất thế gian. Như dạy, sung túc là quả của bố thí, cúng dường, là cái quả của những gì bạn mà cho đi, không phải là cái quả của những gì bạn tham lam của người khác. Sát sanh sẽ mang đến tai ương, hoạn nạn và giảm thọ v.v… không phải là nhân của mạnh khỏe để sát hại sinh mạng bồi bổ cho thân mình. Khi bạn có thể ghi nhận những tư tưởng đó trong đầu, thì dù muốn dù không, nó cũng chi phối hành động của bạn ít nhiều. Thường thì chúng ta không thể làm chủ liền mọi hành vi của mình dù đã được học những gì mà Như Lai đã nói, nhưng rồi mọi thứ cũng xong khi chúng ta có niềm tin với Tam bảo.

          Nếu nhân quả được đem ra dạy cho trẻ con, ngay từ khi chúng ý thức được ít nhiều về một sự trao đổi hai chiều, thì đó chính là chiều khóa giúp  dừng bớt tham sân trong chúng, các bất thiện nghiệp cũng sẽ giảm trong tương lai.

          Đó là lý do chúng ta phải học để hiểu về những gì Như Lai đã nói, phải thực hiện cho được những gì mình đã học. Trong việc học pháp và hành pháp Như Lai đã nói, có một phần chúng ta không thể bỏ qua, đó là lời nguyện. Lời nguyện giúp chúng ta dễ dàng thực hiện hơn những gì mình đã được học. “Nguyện cho chúng con ngày càng tin sâu vào giáo pháp của Như Lai. Nguyện cho chúng con được cơ hội thực nghiệm giáo pháp Như Lai trong đời sống thường nhật của mình, để hiểu hơn về những gì mà Như Lai đã nói với niềm tin sâu sắc nhất”. Hãy nguyện như thế khi tiếp cận giáo pháp của Như Lai.

          Khi đã biết nhân quả chi phối thế gian này thế nào, tham sân cũng nhạt mỏng rồi, thì nhất định chúng ta không còn bị vật chất thế gian làm mờ mắt đến nổi biến các thiện nghiệp thành cái nhân của ác nghiệp, cũng như lợi dụng thiện nghiệp để vơ vét tài sản cho riêng mình .    

          Làm lợi ích cho chúng sanh:

          Tự lợi rồi, không thể thiếu phần lợi tha. Vì không có lợi tha thì tự lợi không thể viên mãn. Nó là nhân duyên giúp một người phát tâm tu đại đạo thành tựu quả vị Phật của mình.

          Nếu chỉ tập trung vào tự lợi mà không có lợi tha thì không thể tiêu trừ chấp ngã. Lợi tha,  biểu hiện cho mức độ chấp ngã mà hành giả vừa đạt được. Đỉnh cao của nó là “ chịu khổ thế cho chúng sanh” lấy đó làm pháp cúng dường mười phương chư Phật. Nếu đã có thể chịu khổ thế cho chúng sanh thì khả năng nhiếp thọ đối với chúng sanh đó là rất lớn. Đây là quy luật tự nhiên ở thế gian này. Mọi thứ đều không ra ngoài nhân quả. Nếu có thể thí xả thân mạng vì lợi ích của một ai đó, chúng ta sẽ nhận lại được những phần tương tợ nhờ nguyện lực đã phát.

          Ngoài ra khi nguyện lực được hoàn chỉnh ở mức độ nào đó, lợi tha trở thành việc tự nhiên của một vị Bồ tát. Đó là việc không thể thiếu trong quá trình tu hành của chư vị. Nó tự nhiên như việc ăn cơm uống nước hàng ngày.

  Muốn thay đổi nghiệp chướng, không chỉ nương vào phần phước đức mà còn phải nương vào công đức tu hành, công đức lợi tha, công đức hồi hướng và nhất là công đức phát tâm Bồ đề. Cộng tất cả những công đức ấy để hồi hướng cho nghiệp chướng tiêu trừ.      

                                        Trích NSGN số 228/3-2015 - Chân Hiền Tâm

{š¯{

LÒNG VỊ THA VÀ SỰ BẤT CẬP CỦA VỊ THA Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét