LÒNG
VỊ THA VÀ SỰ BẤT CẬP CỦA VỊ THA
Chúng ta thường nói nhiều về tính
tương trợ, về lòng nhân ái, vị tha đối với muôn người, về cần, kiệm, liêm,
chính, chí công, vô tư, nhưng ác pháp vẫn luôn xảy ra, vì chúng ta coi thường giáo
lý Nhân quả mà Phật đã dạy trong kinh điển, vì cách giáo dục và xử lý của chúng
ta tạo điều kiện tham, sân, si có cơ hội trong mỗi người phát triển mạnh. Chính
vì thế, việc tốt có nhiều khi là nhân để
các ác pháp xuất hiện. Chúng ta vá chỗ này, lại rách chỗ kia. Những việc
làm mang tính cách vị tha có khi chỉ là trá hình của những vụ lợi riêng tư. Hay
giả dạng nghèo khó, khó khổ để mong chờ lòng thương người khác, nhưng khi được
giúp đỡ hỗ trợ xong, họ lại quay lưng trở mặt. Lúc này thiện pháp trở thành
nhân của ác pháp. Lúc nghèo thiếu năn nỉ
xin vay mượn xong rồi quỵt luôn không ngó mặt đó là những hạng người vô ơn, qua
cầu rút váng. Những người đó họ không tin Nhân quả và không sợ nhân quả. Nhân
quả xoay vần, không thể chạy trốn đâu cho khỏi, thời vận hết nhân quả xấu sẽ
trổ ra, vì nhân quả trả vay không bao giờ sai lệch. Cho nên, thứ mà chúng ta
gọi là thiết thực chưa hẳn là thiết thực dù nó có thiết thực trong một phạm vi
nào đó, trong một giai đoạn nào đó.
Trong kinh tạng có một câu chuyện về lòng vị
tha như sau: Thời vua Quán Đảnh Sát đế lỵ, quốc gia không được hưng thịnh như
các đời vua trước. Vua hỏi các cận thần thì được biết vua không cai trị nước theo Chánh pháp của Thánh vương mà theo
ý mình. Từ đó vua bắt đầu cai trị quốc gia theo Chánh pháp nhưng riêng mục bố
thí thì không. Nghèo đói lan rộng và trộm cắp nẩy sinh.
Khi kẻ trộm bị bắt, vua hỏi vì sao đi
trộm cắp? Được trả lời: “vì không có gì để sống”. Vua nghe vậy, liền cho hắn
tiền bạc và dặn hãy dùng nó để nuôi dưỡng
gia đình, bản thân cũng như bố thí, cúng dường v.v… Bất cứ kẻ ăn trộm nào được
dẫn tới, nhà vua đều làm như thế. Dân chúng đồn nhau: “Kẻ nào trộm cắp tiền bạc
của người khác, đều được vua cho tiền
bạc”. Thế là nghề ăn trộm tăng thạnh. Vua biết tin như vậy, mới suy nghĩ: “Trộm
cắp mà được ta cho tiền thì trộm cắp càng tăng trưởng. Nay ta phải ngăn chận
triệt để”. Nhà vua ra lệnh, ai trộm cắp sẽ bị
chặt đầu.
Khi lệnh được ban hành thì xã hội lại
nẩy sinh vấn đề mới. Đó là hình thành nên những tên ăn trộm được trang bị bằng
dao kiếm. Chúng giết sạch những người bị chúng ăn trộm để không còn ai nhận
diện. Từ đó kéo theo những việc phi pháp khác. Do những việc như thế mà tuổi
thọ loài người càng giảm mạnh, người sống trái đạo được tán dương, người người
sát hại lẫn nhau, ác ý lẫn nhau, sát tâm
mãnh liệt, người trong gia đình không còn thân thiện với nhau v.v…. Hết thảy
đều do thiếu cái nhìn mà Như Lai đã nói
trong kinh điển.
Pháp cúng dường của Bồ tát:
Hai từ Bồ tát và chúng sanh, hiểu theo
nghĩa “hữu tình giác” và “hữu tình chưa giác”. Bồ tát và chúng sanh nói đây
được tính trên từng niệm. Vì thế, không hẳn trong một người chúng ta cho là
chúng sanh không có niệm Bồ tát. Trong một người chúng ta cho là Bồ tát không
hẳn không có niệm chúng sanh. Phân, chỉ để dễ phân biệt vấn đề, không có ý đề cao hay chê bai.
Trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm nhập Bất
tư nghì giải thoát cảnh giới Phổ Hiền hạnh nguyện, Bồ tát Phổ Hiền nói với
Thiện Tài cùng đại chúng rằng: “Thiện nam
tử! Trong các thứ cúng dường, pháp cúng dường là hơn hết. Pháp cúng dường là:
Tu hành đúng theo lời Phật dạy để cúng dường, làm lợi ích cho chúng sanh để
cúng dường. chịu khổ thế cho chúng sanh để cúng dường, nhiếp thọ chúng sanh để
cúng dường, siêng năng tu tập căn lành để cúng dường, không bỏ hạnh Bồ tát để
cúng dường, chẳng rời tâm Bồ đề mà cúng dường….
Trong 10 pháp này, “Tu hành đúng theo lời Phật dạy’ và “siêng năng
tu tập căn lành” mang tính tự lợi. “Làm lợi ích chúng sanh”, “ Chịu khổ thay
thế chúng sanh” và “nhiếp thọ cúng sanh” thuộc lợi tha. Phân như vậy nhưng lợi
tha không lìa tự lợi.
Có lẽ, ít có đạo giáo nào dạy môn đồ
của mình chịu khổ thế cho chúng sanh v.v…. lấy đó làm pháp cúng dường, nhưng
Phổ Hiền đã nói về hạnh nguyện của mình cũng như tất cả các Bồ tát là như vậy.
Thì biết, tâm vị tha mà đạo phật nói đến không chỉ dừng lại ở mặt thiết thực
trong hiện tại, có những thứ thiết thực sâu xa và dài lâu hơn nhiều so với cái
nhìn của phàm phu, chúng ta không thể hiểu thấu.`
Tu hành đúng theo lời Phật dạy:
Hiện nay, thiện nghiệp trở thành cái
nhân của ác nghiệp hay trở thành sự trá hình của những vụ lợi riêng tư, đều bắt
nguồn từ ba thứ tham, sân, si. Vì bị vô minh chi phối, không hiểu về thực lý
Duyên khởi đang chi phối thế giới này thế nào, nên chúng ta mới coi các việc
thiện như một phương tiện để thực thi những tham muốn vị kỷ của mình. Chính vì
thế, nguyện đầu tiên mà một vị Bồ tát phải làm, dó là tu hành đúng theo lời
Phật dạy. Chỉ khi tu hành đúng theo theo lời Phật dạy thì chúng ta mới không
vướng vào những điều mà người thế gian hay vướng trong việc làm lợi ích cho
người. Việc lợi tha mới được viên mãn.
Muốn
tu hành đúng theo lời Phật dạy thì trước hết
phải học, phải suy ngẫm những gì Như Lai đã nói trong kinh luận. Chắc
không có tôn giáo nào có phần kinh luận nhiều như Phật giáo. Bởi giáo pháp của
Như Lai do ứng cơ mà thành tựu. Chúng sanh có bao nhiêu bệnh thì có bấy nhiêu
pháp. Vì thế, kinh luận nhiều vô kể. Nhiều như thế, nhưng mục đích cũng chỉ là
giúp chúng sanh nhận ra thực lý đang chi phối thế giới này, giúp chúng sanh
tiêu trừ tận gốc ba thứ tham, sân, si đã huân tập từ vô thời vô thủy và cuối
cùng là nhận ra được bản chất thật của các pháp, trong đó có thân và tâm mình.
Vì sao phải tiêu trừ tham, sân, si ? –
Vì tham thì thiện nghiệp trở thành cái nhân của ác nghiệp. Vì tham thì thiện nghiệp
chỉ là trá hình của những vụ lợi riêng tư v.v.. Với một tâm dễ sân hận, chúng
ta khó tiếp cận được với người, để việc lợi ích cho tha nhân được tốt đẹp, cũng
không đủ tâm mềm mỏng để làm lợi ích cho hàng hạ căn. Nghĩa là, tham sân còn
nhiều, chúng ta không thể nào thực hiện nổi lời nguyện mà Bồ tát Phổ Hiền đã
nói: “:Chịu khổ thế cho chúng sanh” lấy
đó làm pháp cúng dường. Vì thế, cần phải tiêu trừ tham, sân, si.
Thứ hai, với giáo pháp của Như Lai,
không tiêu trừ tham dục và sân hận, chúng ta không thể tiếp cận được với phần
thâm pháp mà Như Lai đã nói. Có thể với phần thô của Duyên khởi, là phần dạy
nhân quả ở thế gian, tham sân còn chúng ta vẫn có thể tiếp thu được nó, nhưng
muốn tiếp cận được với phần giáo lý Duyên khởi thâm sâu, tham sân phải nhạt
mỏng thì thực tánh của Duyên khởi mới được hiển bày. Vì chỉ khi nhận ra được
thực tánh của vạn pháp, chúng ta mới có thể sử dụng được “ý sanh thân” mà kinh
Lăng Già đã nói. Tự lợi mới tròn đầy, lợi tha mới viên mãn. Vì thế, cần phải
bào mòn tham, sân, si. Nói chính xác là cần phải nhận ra thực tánh của tham, sân, si.
Cho nên, học hạnh Bồ tát mà không học
để hiểu những gì Như Lai đã nói, là một thiếu sót rất lớn của kẻ tu đạo. Học mà
không hành thì có khi trên sự, mình lại đi ngược với những gì Như Lai đã nói. Tham
dục hay sân hận là chủ động ở mỗi người. Chỉ cần ngay lúc đó không tham hay sân
thì mọi thứ khác đi, việc gì mà phải học. Dù học cho nhiều mà ngay lúc đó không
chịu làm chủ hành vi của mình thì cũng như không. Nói ra đúng nhưng chưa phải
là tất cả. Vì nếu không học thì không thể biết tham sân là xấu uế để mà trừ bỏ.
Không học thì không biết tai hại của tham sân. Và nếu không học thì chúng ta
không thể biết thâm tâm mình bị chi phối bởi một thứ mà chúng ta chưa ý thức
hết về nó, đó là nghiệp hay tập.
Chúng ta không phải chỉ sống ở một
kiếp này. Đã từ vô lượng kiếp về trước. Tham và sân được huân tập và tích tụ
rất nhiều trong tạng thức. Chính vì sự tích tụ đó mà đụng duyên, mình không thể
làm chủ hành vi của mình. Vì tham sân một khi tích tụ nhiều thì nó sẽ tạo ra
một lực, khiến khi đủ duyên, mình không còn làm chủ được bản thân. Không còn
nhớ hay nghĩ gì đến thiện pháp khi duyên đã đầy đủ trước mắt. Chính vì tham sân
có lực mà mọi suy nghĩ của mình trở thành lệch lạc. Suy nghĩ đã lệch lạc thì tham
sân càng tăng thạnh. Huân vào tạng thức càng nhiều thì tham sân càng có lực lớn
hơn vào những kiếp sau, tà kiến càng tăng thạnh.
Học pháp của Như Lai, chính là để biết
vì sao không nên tham hay sân. Là lúc chúng ta bắt đầu ý thức về thiện nghiệp,
lấy ý thiện làm chủ lực trong mọi hành động của mình. Nó góp phần khá lớn trong
việc giúp chúng ta làm chủ bản thân. Giáo pháp của Như Lai nói đến nhân quả thế
gian và xuất thế gian. Như dạy, sung túc là quả của bố thí, cúng dường, là cái
quả của những gì bạn mà cho đi, không phải là cái quả của những gì bạn tham lam
của người khác. Sát sanh sẽ mang đến tai ương, hoạn nạn và giảm thọ v.v… không
phải là nhân của mạnh khỏe để sát hại sinh mạng bồi bổ cho thân mình. Khi bạn
có thể ghi nhận những tư tưởng đó trong đầu, thì dù muốn dù không, nó cũng chi
phối hành động của bạn ít nhiều. Thường thì chúng ta không thể làm chủ liền mọi
hành vi của mình dù đã được học những gì mà Như Lai đã nói, nhưng rồi mọi thứ
cũng xong khi chúng ta có niềm tin với Tam bảo.
Nếu nhân quả được đem ra dạy cho trẻ
con, ngay từ khi chúng ý thức được ít nhiều về một sự trao đổi hai chiều, thì
đó chính là chiều khóa giúp dừng bớt
tham sân trong chúng, các bất thiện nghiệp cũng sẽ giảm trong tương lai.
Đó là lý do chúng ta phải học để hiểu
về những gì Như Lai đã nói, phải thực hiện cho được những gì mình đã học. Trong
việc học pháp và hành pháp Như Lai đã nói, có một phần chúng ta không thể bỏ
qua, đó là lời nguyện. Lời nguyện giúp chúng ta dễ dàng thực hiện hơn những gì
mình đã được học. “Nguyện cho chúng con ngày càng tin sâu vào giáo pháp của Như
Lai. Nguyện cho chúng con được cơ hội thực nghiệm giáo pháp Như Lai trong đời
sống thường nhật của mình, để hiểu hơn về những gì mà Như Lai đã nói với niềm
tin sâu sắc nhất”. Hãy nguyện như thế khi tiếp cận giáo pháp của Như Lai.
Khi đã biết nhân quả chi phối thế gian
này thế nào, tham sân cũng nhạt mỏng rồi, thì nhất định chúng ta không còn bị
vật chất thế gian làm mờ mắt đến nổi biến các thiện nghiệp thành cái nhân của
ác nghiệp, cũng như lợi dụng thiện nghiệp để vơ vét tài sản cho riêng mình .
Làm lợi ích cho chúng sanh:
Tự lợi rồi, không thể thiếu phần lợi
tha. Vì không có lợi tha thì tự lợi không thể viên mãn. Nó là nhân duyên giúp
một người phát tâm tu đại đạo thành tựu quả vị Phật của mình.
Nếu chỉ tập trung vào tự lợi mà không
có lợi tha thì không thể tiêu trừ chấp ngã. Lợi tha, biểu hiện cho mức độ chấp ngã mà hành giả vừa
đạt được. Đỉnh cao của nó là “ chịu khổ thế cho chúng sanh” lấy đó làm pháp cúng
dường mười phương chư Phật. Nếu đã có thể chịu khổ thế cho chúng sanh thì khả
năng nhiếp thọ đối với chúng sanh đó là rất lớn. Đây là quy luật tự nhiên ở thế
gian này. Mọi thứ đều không ra ngoài nhân quả. Nếu có thể thí xả thân mạng vì
lợi ích của một ai đó, chúng ta sẽ nhận lại được những phần tương tợ nhờ nguyện
lực đã phát.
Ngoài ra khi nguyện lực được hoàn
chỉnh ở mức độ nào đó, lợi tha trở thành việc tự nhiên của một vị Bồ tát. Đó là
việc không thể thiếu trong quá trình tu hành của chư vị. Nó tự nhiên như việc
ăn cơm uống nước hàng ngày.
Muốn thay đổi nghiệp chướng, không chỉ nương
vào phần phước đức mà còn phải nương vào công đức tu hành, công đức lợi tha,
công đức hồi hướng và nhất là công đức phát tâm Bồ đề. Cộng tất cả những công
đức ấy để hồi hướng cho nghiệp chướng tiêu trừ.
Trích NSGN số 228/3-2015 - Chân Hiền Tâm
{¯{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét