HỌC
CÁI GÌ VÀ HỌC ĐỂ LÀM GÌ?
Con người khác với loại động vật là biết
học hỏi, biết tìm tòi, biết sáng tạo và
có chữ viết để ghi lại những điều đã qua, lưu trữ những thông tin và hình ảnh
quá khứ, làm tư liệu phát triển cho tương lai. Con vật chúng cũng có sự học hỏi
từ cha mẹ, từ đồng loại của chúng, với
những thao tác kỹ năng để bảo vệ thân mạng và tìm sự sống, gói gọn trong phạm
vi nhỏ hẹp.
Con người có bộ nhớ nhiều hơn,
rộng hơn, thông minh hơn, có sự sáng tạo và khám phá nhiều hơn. Vì thế con người
có khả năng từ phàm phu tục tiểu tiến hoá lên làm thánh làm Phật. Ban đầu con
người như những con vật, như con khỉ,
con vượn, tiến hoá lần thành con người trưởng thành khác xa với những con khỉ, con vượn chưa được tiến hoá.
Vì thế HỌC đối với con người rất là cần thiết.
Nho
giáo rất đề cao việc học: “ Nhân bất học bất tri lý, ấu bất học lão hà vi. Học
giả như hoà như đạo, bất học giả như cảo như thảo” v.v.. Nghĩa là người không học
thì không biết nghĩa lý, nhỏ không học, lớn làm việc gì? Hoặc người có học như lúa như gạo, người
không học như cỏ như rác. Nho gia đề cao người có học thì có giá trị như cơm
như gạo, còn người không học thì không có giá trị, xem như cỏ như rác.
Phật học cũng luôn đề cao việc học: “Duy tuệ sự nghiệp” Trí tuệ là
sự nghiệp của con người. Nhưng giữa hai cái học đời và học đạo có xu hướng khác nhau. Nho gia học để
thành người quân tử, còn Phật học, học để làm Phật. Tiêu chí người quân tử của
Nho gia có ba là “ Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng bất
năng khuất”. Người quân tử gặp cảnh giàu sang phú quý thì không ham muốn, không
tham lam; gặp cảnh nghèo hèn thì không thay đổi ý chí, tâm tính; gặp kẻ mạnh, uy quyền, không chiều chuộng, khuất phục.
Chúng ta thấy tiêu chí người quân tử của Nho gia rất cao và dũng
khí, nhưng ít ai làm được. Nhưng nếu có làm được cũng chỉ là người phàm phu tục
tử, thuộc về dạng người hiền trong xã hội, chưa có thể ra khỏi vòng khổ đau
sanh tử luân hồi như người tu học Phật pháp. Nên gọi pháp thế gian, còn Phật học
là pháp xuất thế gian.
Vậy
học là để làm gì? Liên Hiệp Quốc định nghĩa học có bốn phạm trù: Học để biết, học
để khẳn định mình, học để làm người, học để cùng sống chung. Nói học là nói Giáo
dục, giáo dục gồm có giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội.
Tôn giáo cũng là một loại giáo dục, Phật học chuyên về giáo dục hơn là tín ngưỡng.
Vậy giáo dục là học, học có nhiều định nghĩa như sau:
Học
là quá trình tiếp thu kiến thức
Học
là để trưởng thành cho chính mình
Học
là để chuyển hoá- Học là để thông minh
Học
là để thưởng thức cuộc sống
Học
là để sống và cảm nhận cuộc sống, để thưởng thức cuộc sống.
Học
là khẳn định mình, học là để khơi dậy tiềm măng của mình.
Học
là để làm con người tự chủ tâm hồn tự do cuộc sống hạnh phúc.
Giáo
dục là sự truyền trao kiến thức và tiếp nhận kiến thức
Giáo
dục là để khai phóng, là để khơi ra tiềm năng con người.
Nho gia lấy Tam Cương ngũ thường làm cương lĩnh cho sự bảo tồn xã
hội . Tam cương: quân, sư, phụ. Cương là giềng mối. Quân, thần vương, Vua là giềng
mối của bầy tôi, vì thế bầy tôi phải bảo vệ vua. Cương là cái dây được kết nối
với các lỗ lưới, nếu lưới rách có thể vá lại được, nhưng một khi giếng mối đứt
thì lưới cũng không còn, vì thế phải bảo vệ vua. Mất vua thì mất nước, mất luôn
quân thần, bởi vậy cương là giềng mối của bầy tôi.
Sư là Thầy là giềng mối của học trò, không có thầy thì trò không
có chỗ tựa để tiến thân, vì thế bảo vệ Thầy (sư). (không thầy đố mầy làm nên).
Chồng là chỗ dựa của vợ, nên chồng không còn thì vợ sẽ bơ vơ lạc
lõng. Đó là quan niệm của ngày xưa,
nhưng ngày nay thì thời cuộc thay đổi, nhận thức thay đổi, kinh tế, ngành nghề,
học vấn, chính trị thay đổi thì Tam cương không còn giá trị tác dụng như ngày
xưa nữa. Đó là nói những ông vua nhân đạo, thông minh, những vị thầy đạo đức
trí tuệ, những người chồng trượng phu, biết an phận xử thế trong quan hệ gia
đình, thì Tam cương mới có thực sự giá trị. Nhưng gặp những ông vua ác độc, những vị Thầy mê muội, những ông chồng vũ phu lấy làm giềng mối thì
là một đại hoạ cho xã hội. Vì thế Tam cương không thực sự là chỗ dựa bền vững
theo không gian và thời gian.
Từ Hán Cương thường là giềng mối
Từ Việt Cang thường là tình yêu thương, quan tâm chia sẻ.
Học để biết đúng sai, biết yêu thương, biết kiến tạo
Học để con người tự chủ tâm hồn tự do cuộc sống hạnh phúc.
Đối với người học Phật có mấy trường hợp
Học
hỏi- Học hiểu- Học hành- Học hoằng- Học hộ. Học để hiểu, hiểu để hành, Hành đem
ra hoằng hoá, Hoằng hoá là để hộ trì chánh pháp được lưu thông mãi mãi, không bị
gián đoạn.
Giáo dục là đào tạo con người có tài năng để làm lợi cho xã hội, nếu
trong xã hội có người nghèo, người bịnh tật, người thất học thì sẽ ảnh hưởng đến
xã hội. Như vậy giáo dục là sự làm lợi cho xã hội. Giáo dục là đào tạo con người
tài năng để làm lợi cho mọi người, cho xã hội, cho đất nước.
Nho
gia là học thuyết do đức Khổng Tử khởi xướng vào thế kỷ VI trước Công nguyên, gần
thời Phật Thích Ca ra đời. Trong bối cảnh xã hội Trung Quốc tình hình chính trị
xã hội, đạo đức, văn hoá, trật tự kỷ cương xã hội bị đảo lộn, rối loạn. Vì thế
lý tưởng của Khổng Tử xây dựng một học thuyết về Nhân lễ Chánh danh là nhằm
khôi phục lại trật tự kỷ cương và đạo đức
xã hội Trung Quốc rối ren thời ấy.
Nho giáo đã phát triển qua các thời kỳ, giai
đoạn Khổng Tử- Khổng Mạnh- Tuân Tử là ở giai đoạn sơ kỳ. Ở giai đoạn này không
mang tính cách tôn giáo, mà mang tính cách một học thuyết chính trị đạo đức xã
hội nên gọi là Khổng học hay Nho học. Nho giáo trở thành tôn giáo tính từ Hán
Nho, Đường Nho, Tống Nho, Minh Nho… Từ Hán Nho trở đi, Nho học biến tướng các
tư tưởng của mình cho thích hợp với chế độ phong kiến Trung ương tập quyền
Trung Quốc.
Nho
giáo qua Việt Nam không còn là tư tưởng
Khổng học và tôn giáo mà hoà nhập với phong tục tín ngưỡng nhân gian. Đặc biệt
Nho giáo kết hợp giữa hai yếu tố chính trị và học thuyết mà Nho gia trở thành
công cụ đắc lực và chỗ dựa cho các triều đại phong kiến. Nho giáo ảnh hưởng rất
sâu rộng văn hoá Việt Nam nhưng không giữ vị trí độc tôn trong xã hội Việt Nam,
trái lại văn hoá Phật giáo giữ vai trò độc tôn
trong guồng máy chính trị qua các triều đại vua quan thời phong kiến của
Việt Nam.
Nho giáo đóng vai trò một học thuyết chính trị, đạo đức giúp vua
quan trị nước, an dân và xây dựng một trật tự xã hội phù hợp với cương thường lễ
nghi trong thời đại phong kiến. Trong Nho giáo có nhiều điều tích cực, nhưng
cũng có những điều tiêu cực mà thời đại ngày nay không còn phù hợp nữa.
Những điểm tích cực như, Nho gia đưa quan điểm cá nhân làm người
trượng phu thì phải tu thân, tề gia và bình thiên hạ. Đối với bản thân thì phải
nghiêm khắc; đối với người thì phải khoang dung, độ lượng, đạo đức; đối với
công việc phải tận tâm, tận lực.
Nho
giáo có những yếu tố không phù hợp với thời đại mới, như tư tưởng đẳng cấp, xem
nhẹ lao động chân tay ( nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ).
Không bình đẳng giới, xem nhẹ quyền và nghĩa vụ của phụ nữ, phụ nữ không được đề
cao ( nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô), trong gia đình sinh được một con
trai xem như có, còn sinh mười con gái xem như không.
Nho giáo có những yếu tố tích cực, như triết lý hành động, tư tưởng
nhập thế, hành đạo giúp đời, lý tưởng về một xã hội an bình, hoà mục, một thế
giới đại đồng. Triết lý tu thân, lý tính đề cao văn hoá, lễ giáo tạo ra truyền
thống hiếu học.
Nói chung nền giáo dục hiếu học Nho gia được kết hợp với tư tưởng
Phật học, tạo nên một nền văn hoá Việt Nam đặc sắc không bị đồng hoá bởi văn
hoá phương Bắc, và phương Tây. Tạo nên sức mạnh dẽo giai, bền bỉ vững vàng trên
vấn đề giữ nước, dựng nước qua các thời kỳ bảo vệ chủ quyền đất nước và chống sự
bành trường ngoại xâm của các thế lực nước lớn Đông và Tây.
Bởi vậy. HỌC là vấn đề then chót quan trọng của Đời và Đạo. Đối với
Đời học để thành người tài năng để phát triển đất nước và bảo vệ chủ quyền nước
nhà. Với đạo Pháp học để giải thoát bản thân ra khỏi phiền não, bảo vệ đạo
pháp, hộ trì Phật pháp và hộ nước an dân./.
{¯{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét