THIỀN CHỈ VÀ THIỀN QUÁN, TỨ THIỀN VÀ TỨ QUẢ
Hỏi: Xin cho biết sự khác nhau cơ
bản giữa tu tập Thiền chỉ và Thiền quán ? Tứ thiền và Tứ quả là gì? Sự khác
biệt và mối liên hệ giữa chúng?
Đáp:
Thiền chỉ và Thiền quán là hai hình thức vận dụng tu tập Thiền định (Jhana) của
Phật giáo. Tu tập Thiền chỉ (Sammatha), hành giả để tâm dừng trú trên một đối
tượng với chánh niệm tỉnh giác, không suy nghĩ và tư duy. Như để tâm theo dõi
hơi thở vào ra hoặc trú tâm vào danh hiệu Phật, dứt bặt nghĩ tưởng và hoàn toàn
chánh niệm tỉnh giác tức đang hành Thiền chỉ. Tu tập Thiền quán (Vipassana) thì
lại khác, hành giả để tâm theo dõi một đối tượng và phân tích hay tư duy trên
đối tượng ấy, nói cách khác là quán tánh sanh diệt trên đối tượng. Theo quan
điểm của Kinh tạng Nikaya thì có bốn mươi đối tượng tu tập Thiền quán. Tuy
nhiên, hành giả phải để tư duy hoạt động trên cơ sở sự thật về Duyên khởi hoặc
Khổ, Vô thường hay Vô ngã. Nếu tư duy mênh mang và không phân tích sự vật theo
duyên sinh thì đấy chỉ là vọng tưởng mà không phải Thiền quán.
Thông thường thì Thiền chỉ
thuộc về tĩnh, còn Thiền quán thuộc về động. Vận dụng tu tập Chỉ hoặc Quán dựa
trên nguyên tắc đối trị. Khi tâm quá năng động, trạo cử thì vận dụng Thiền chỉ.
Ngược lại tâm quá thụ động, hôn trầm thì hành giả vận dụng tu tập Thiền quán.
Trong tu tập thiền định, Chỉ và Quán được phối hợp nhịp nhàng, tuỳ theo căn
tánh của hành giả mà vận dụng Chỉ hoặc Quán để điều phục tâm, đi sâu vào thiền
định.
Tuy nhiên, Thiền chỉ đem đến kết quả định
tâm, thành tựu Tâm giải thoát, chứng đắc thần thông. Muốn thành tựu Tuệ giải
thoát thì từ Tứ thiền, phải phát triển Thiền quán đến đỉnh cao, đoạn trừ hết
thảy lậu hoặc, kiết sử, chứng đắc Tam minh, giải thoát luân hồi sanh tử, chứng
A la hán.
Tứ thiền tên
gọi tắt của Tứ thiền định tức bốn cảnh giới thiền định, thuộc bốn chi phần đầu
của Bát thiền hay Bát định (Samapttiya), gồm Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và
Tứ thiền. Đối với một hành giả tu tập thiền định thì nỗ lực đầu tiên là chuyển
hoá năm triền cái (trạo cử, hôn trầm, dục, sân và nghi), vốn làm ô nhiễm tâm,
làm chướng ngại trí tuệ. Dùng năm thiền chi (tầm, tứ, hỷ, lạc và xả, nhất tâm)
để đối trị năm triền cái.
Sơ thiền là cảnh giới mà hành giả
chứng đạt với trạng thái hỷ lạc do đoạn trừ năm triền cái, ly dục, ly các
pháp bất thiện, có tầm và tứ (ly sanh hỷ lạc). Nỗ lực tu tập, hành giả diệt
tầm và tứ, chứng và trú Nhị thiền, một trạng thái hỷ lạc do Định sinh, không
tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm (Đinh sinh hỷ lạc). Tiếp tục tu tập, hành giả
xả ly hỷ, tâm cảm thọ lạc, có sự buông xả, tĩnh lặng, chánh niệm tỉnh giác,
chứng và trú Tam thiền, trí tuệ bắt đầu hiển lộ (ly hỷ diệu lạc). Tứ thiền là
cảnh giới tâm hành giả trở nên bất động, xả khổ và lạc, bình đẳng với sự vật,
xa lìa phân biệt, nhất hoá chủ thể và đối tượng, ý nghĩa nhất như được thể
hiện (Xả niệm thanh tịnh). Tứ thiền và Tứ quả có mối liên hệ
mật thiết, Tứ thiền làm nền tảng cho việc tu tập chứng đắc Tứ quả. Chỉ có Tứ
Thánh quả mới đoạn tận sinh tử, thành tựu giải thoát, chứng đắc Niết bàn. |
|
Như đã trình bày, từ Tứ thiền, hành giả chuyên tâm tu tập
Thiền quán về Vô ngã, Vô thường… loại trừ mười kiết sử, lần lượt chứng đắc Tứ
Thánh quả. Hoặc từ Tứ thiền, dựa trên nền tảng của Thiền chi xả và nhất tâm,
hành giả hướng tâm vào tưởng “không gian là vô biên”, thì sẽ đắc Không vô biên
xứ định. Lần lượt chứng đạt Thức vô biên xứ định, Vô sở hữu xứ định và Phi
tưởng phi phi tưởng xứ định. Tại định phi tưởng phi phi tưởng xứ, hành giả
chánh niệm tỉnh giác ra khỏi định này thì sẽ vào Diệt thọ tưởng định. Còn một
con đường khác, từ Vô sở hữu xứ định, hành giả nỗ lực tu Thiền quán Tứ vô lượng
tâm (từ,bi, hỷ, xả) để băng ngang Phi tưởng phi phi tưởng vào Diệt thọ tưởng
định. Tại đây, tất cả lậu hoặc được đoạn trừ, chánh trí giải thoát phát
(Trích Phật pháp Bách vấn tập I, 08/12/2024)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét