Thứ Hai, 16 tháng 12, 2024

KHỞI NGUYÊN CỦA THIỀN TÔNG

 

KHỞI NGUYÊN CỦA THIỀN TÔNG

        Hỏi: Thiền và Thiền tông có khác nhau không, và phát xuất từ đâu? Có phải do Đức Phật truyền lại hay là do các Tổ Thiền sư Trung Hoa khai sáng ra. Thiền tông có khác với các dòng thiền trong Phật giáo không?

        Đáp: Trước khi  hiểu về Thiền chúng ta phân ra các loại Thiền như sau. Có hai loại, Thế gian thiền và xuất thế gian thiền, Tức  Thiền thế gian  và Phật thiền. Thiền thế gian có nhiều loại bao gồm hai loại là Phàm phu thiền và  ngoại đạo thiền. Thiền ngoại đạo là loại Thiền đã có trước khi Phật xuất hiện ở đời. Thứ hai Thiền Phật giáo, Đức Phật đi xuất gia tìm đạo, mới đầu Phật học thiền từ các tổ sư ngoại đạo, sau đó Phật nhận thấy Thiền ngoại đạo chỉ đạt đến cảnh giới Phi phi tưởng là cùng, không thể giải thoát sanh tử luân hồi được. Vì thế Phật từ bỏ cách tu thiền của ngoại đạo, tự mình tu thiền tìm hướng đi mới và cải biến Thiền ngoại đạo sang một hướng đi khác, là đạt đến tuệ giác ra khỏi sanh tử luân hồi, thành quả vị Chánh giác.

        Thiền thế gian có thiền ngoại đạo, tu để đạt đến cảnh giới cõi Trời, có thần thông, biết trước vận mệnh trời đất v.v.. Thiền phàm phu mục đích tu để có sức khoẻ, thông minh v.v… như Yoga, thiền nhân điện, thiền trường sinh học, thiền Pháp luân công v.v.. chủ yếu làm cho con người thân khỏe tâm an ít bịnh ít tật, bớt khổ. Hai loại thiền này có lợi ích trong cuộc sống hiện tại, nhưng đi xa hơn nữa ra khỏi sanh tử luân hồi thì chưa đạt được. Vì thế người tu học Phật nên cần phải phân biệt và dè dặt dễ lầm lạc.

        Phật thiền có ba loại: Đại thừa thiền, Tiểu thừa thiền và Tổ sư thiền. Cả ba loài thiền đều có thể tu tập ra khỏi sanh tử luân hồi như nhau, nhưng cách tu và đạt đến quả vị khác nhau. Đại thừa thiền chỉ cho các bậc căn cơ thượng thừa dễ tu mau chứng, còn gọi là đốn giáo. Như Ngài Ca Diếp, Ngài Huệ Năng mới trực nhận được. Ngài Ca Diếp khi Phật đưa cành hoa sen lên tức thì Ngài ngộ ra lý thiền Phật trao. Ngài Huệ Năng nghe qua câu kinh liền ngộ được Tự tánh. Còn Tiểu thừa thiền là loại thiền dành cho căn cơ bậc trung, tu tập chứng ngộ từ sơ thiền đến tứ thiền rồi dần lên các cấp bực trên.

        Tổ sư thiền còn gọi là thiền tông, thiền này xuất phát ở Trung Quốc bắt đầu từ Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma truyền qua 5 đời, đến Ngài Huệ Năng thì hết truyền. Tuy nói là Tổ sư thiền nhưng cũng phát xuất từ Phật Thích Ca truyền cho Ngài Ca Diếp.  Về sau sự truyền thừa thiền của Tổ Bồ Đề Đạt Ma, các tổ lập ra hai lối thiền, là thiền Công án và thiền Thoại đầu. Tuỳ mỗi căn cơ của đệ tử mà các Tổ dùng Công án hay Thoại đầu để khai hoá cho người đệ tử thực tập để đạt được Tự tánh.

        Thiền Phật thừa gồm có Thiền chỉ và Thiền quán. Thiền chỉ có công năng đình chỉ vọng tưởng điên đảo của tâm, kế đến thiền quán, là quán sát mọi sự mọi việc phát sanh tuệ giác, phá màng vô minh chứng được Tự tánh. Như Phật ngồi thiền dưới gốc Bồ đề quán sát 12 nhân duyên mà chứng được đạo quả Vô thượng Bồ đề, ra khỏi đường mê, không còn trôi lăn trong sanh tử. Phàm phu thiền và Ngoại đạo thiền chủ yếu họ tu thuộc về thiền chỉ, họ còn trong vòng chấp ngã, chấp pháp nên còn quanh quẩn trong ba nẻo sáu đường.

        Phật thuyết pháp độ sanh ở Ấn Độ khi còn tại thế cũng như sau này, chưa có phân thành tông phái. Nhưng Phật giáo truyền qua Trung Hoa, các tổ sư Trung Hoa phân thành 10 tông phái. Như Thiền tông, Tịnh Độ tông, Mật tông, Pháp Hoa tông, Luật tông v.v.. cũng như giáo dục ngoài thế gian chia thành từng môn học, ai thích hợp môn nào, chuyên về ngành nào thì học môn đó. Như ngành y, ngành giáo dục, ngành xây dựng, ngành kinh doanh v.v.. Rất tiện dễ tu dễ học và danh từ Thiền tông có từ đó.  Đạo Phật ban đầu không có phân chia Đại thừa, Tiểu thừa, về sau do sự khai triển ý nghĩa thâm sâu của lời Phật dạy, các tổ sư tạo ra các bộ luận để lý giải những lời Phật dạy từ đó Luận tạng được hình thành và Phật giáo được phân phái từ đó. Phật giáo chia thành hai phái, phái thủ cựu gọi là phái Tiểu thừa. Phái phát triển tức Đại thừa, thay đổi nội dung và bổ sung thêm những điều trong giới luật chưa có và bớt giảm những điều không phù hợp. Từ đó phát sanh ra hai phái rõ rệt về cách sinh hoạt về tu tập. Ví như phái Tiểu thừa chỉ có một loại giới Thanh văn gồm 250 giới. Phái Đại thừa có thêm Bồ tát giới 10 giới trọng 48 giới khinh. Phái Đại thừa ra đời được nhiều người hưởng ứng, từ số lượng  kinh, luật, luận phát triển về mặc học thuật và triết lý càng ngày càng phong phú, đủ sức đối phó và thuyết phục các tư tưởng ngoại đạo. Các kinh của Đại thừa như Kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Di Đà, Lăng Nghiêm, Lăng Già v.v..đều là những kinh mang tư tưởng triết lý sâu xa mà các triết lý thế gian không sánh kịp. Không những triết lý mà mang tính khoa học  và vượt trên khoa học.

        Vì sao nói Phật giáo là khoa học và vượt trên khoa học? Vì những lời Phật nói phù hợp với khoa học, và đi trước khoa học trên 2500 năm. Ví như thời Phật chưa có kính hiển vi Phật biết nói trong nước có vi trùng, Thời Phật chưa có kính viễn vọng, Phật nói từ đây qua phương Tây có cõi Phật A Di Đà phải trải qua mười muôn vạn ức cõi Phật có thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà v.v.. Ngoài ra khoa học dù có tiến triển đến đâu cũng chỉ khai triển trên mặt hiện tượng, nhưng về mặt tâm lý thì khoa học không thể biết được một tí nào. Trái lại Phật học Tâm lý vật lý đều thấu rõ như nhìn bàn tay.

        Thứ đến: Hiểu về định nghĩa của Thiền. Thiền thường gọi là Thiền na, Trung Hoa dịch Tư duy tu (cựu dịch) hay Tịnh lự (tân dịch), nghĩa thuần phác nhất là tập trung tâm vào một chỗ, không để vọng niệm bên trong và vọng cảnh bên ngoài chi phối. Cũng để gọi là Thiền, tiếng Sanskrit: Dhyana; Pal: Jhana; Jappanese: Zen; English: Meditation; với tính cách là một danh từ được nhiều tôn giáo sử dụng nhằm để chỉ cho những phương pháp tu tập khác nhau tương ứng với những mục đích khác nhau. Thiền vốn khởi nguyên từ Ấn Độ, lưu xuất những trầm tư sâu lắng vào trong cảnh giới tự nội của tâm thức của các nhà minh triết phương Đông, trước hết là các nhà tư tưởng, tôn giáo ở Ấn Độ trong thời kỳ cổ đại. Kể từ khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chứng đạo và bắt đầu hoằng truyền Chánh pháp thì đã tạo nên một bước ngoặc vỹ đại trên nhiều phương diện, mà trong đó đã mở ra một sinh lộ mới trong quan niệm về Thiền. Nói rõ hơn, Thiền của Phật giáo, được khởi nguyên từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cùng với tôn chỉ nhất quán là tìm về sự Giác ngộ chân lý tối thượng.

        Khi được truyền sang Trung Hoa, Thiền đã trở thành một trong những tông pháp (Thiền tông) mang tính độc lập tương đối mạnh mẽ và và để lại nhiều ảnh hưởng tích cực trên nhiều phương diện của đời sống tư tưởng, văn hoá của nhân dân Trung Hoa nói riêng và Phật giáo nói chung. Thiền tông còn gọi là Phật tâm tông, Đạt Ma tông,  Vô môn tông,  chỉ cho một tông phái Đại thừa tôn ngài Đạt Ma làm Sơ Tổ, chuyên nguyên cứu bản nguyên của  tâm tính để “kiến tánh thành Phật”. Như vậy, khai tổ của Thiền tông tại Trung Hoa là Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma), là người Nam Thiên Trúc, đến Trung Quốc vào đời Lương (520), thị tịch vào năm Thiên Bình thứ 2,  đời Hiếu Minh Đế, Đông Nguỵ (535), sau khi truyền “tâm ấn” cho Nhị Tổ Huệ Khả.

        Theo lịch sử Thiền tông, Bồ Đề Đạt Ma là tổ thứ 28  ở Tây Trúc và là Sơ Tổ Thiền tông Trung Hoa. Sau Bồ Đề Đạt Ma, “Tâm ấn”  được truyền thừa cho Huệ Khả (Nhị Tổ), Tăng Xán (Tam Tổ), Đạo Tín (Tứ Tổ), Hoằng Nhẫn (Ngũ Tổ) và Đạo Năng (Lục Tổ). Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền pháp cho Thần Tú, xiển dương Thiền tông ở phương Bắc nên hình thành “Bắc Thiền” hay “Bắc tiệm”. Đồng thời, Ngũ Tổ truyền “tâm ấn” cho Huệ Năng (Lục Tổ) truyền bá Thiền tông về  phương Nam nên gọi “Nam Thiền” hay “Nam đốn”.

        Sau Lục Tổ, Thiền “Nam đốn” rất thịnh hành, phát triển rực rỡ và chia thành năm tông phái. Đó là: Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn, và Pháp Nhãn. Tông Lâm Tế về sau phát triển thêm thành hai chi phái là Hoàng Long và Dương Kỳ, hình thành hệ thống truyền thừa “Ngũ gia thất tông”.

        Tuy nhiên, ngoài Thiền tông của Bồ Đề Đạt Ma, Phật giáo còn có nhiều dòng Thiền khác như Thiền Nguyên thuỷ, Thiền Đại thừa phát triển… Cho dù có sự khác nhau về tông phái và pháp môn nhưng cốt tuỷ của các dòng Thiền vẫn dựa vào nền tảng và kinh nghiệm Giác ngộ của Phật Thích Ca Mâu Ni. “Tâm ấn”  của Thiền tông do Bồ Đề Đạt Ma khởi xướng, với phương pháp “trực chỉ” và  “dĩ tâm ấn tâm” vẫn không nằm ngoài nguồn mạch tuệ giác của Đức Phật. Do đó, Thiền Nguyên thuỷ, Thiền Đại thừa Phát triển hay Thiền tông  đều là pháp tu do Đức Phật truyền lại.

        Trong pháp hành, Thiền tông có sắc thái riêng, thậm chí rất kỳ đặc. Bồ Đề Đạt Ma đưa ra tuyên bố “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật”. Ở đây, “giáo ngoại biệt truyền” tức truyền ngoài kinh điển không chủ ý là phủ nhận lời Phật. Đây thực sự là một cuộc cách mạng vĩ đại trong bối cảnh Phật giáo đương thời khiến người tu tỉnh thức, xoay trở lại nội tâm, tránh sự sa đà thái quá vào văn tự, chữ nghĩa. Đồng thời, pháp môn “trực chỉ” là một con đường tắt, thẳng vào tâm người với mục đích “kiến tánh” để thành Phật. Do vậy, dù Sơ Tổ tuyên bố sấm sét “bất lập văn tự” không dựa vào kinh giáo nhưng vẫn không xa rời kinh điển mà bằng chứng rõ nhất là việc truyền lại bộ kinh Lăng Già cho Nhị Tổ Huệ Khả.

        Chư Tổ sư của Thiền tông về sau lại dùng những phương tiện khá mạnh bạo hơn như Hét và Đánh. Với gậy thiền của Lâm Tế, chém mèo của Nam Tuyền, chẻ tượng Phật của Đơn Hà… cùng vô số những việc làm “kỳ dị” khác khiến người bình thường không hiểu Thiền cho đó là không phải hành động của một Tăng sĩ Phật giáo mà là hành vi của ngoại đạo. Xuất phát tự sự ngộ nhận này, nhiều học giả, hành giả khi nghiên cứu và tu tập Thiền đã “đặt vấn đề” với Thiền tông, cho rằng Thiền tông đã đi quá xa so với truyền thống tu tập Thiền định của Phật giáo. Tuy nhiên, tất cả những việc làm của  chư vị Tổ sư không ngoài mục đích “gỡ đinh, tháo chốt”, tức vận dụng những phương tiện kỳ đặc khiến cho người đương cơ nhận ra được “chủ nhân” của chính mình, nhận chân được bản tâm để trực nhập vào bản thể, Phật tánh. Chính pháp môn “chỉ thẳng” và “đốn ngộ” này đã làm cho Thiền tông nói riêng và Phật giáo Trung Quốc hưng thịnh, rực rỡ trong một thời gian dài.

        Ngày nay, Thiền tông có một vị trí quan trọng và tầm ảnh hưởng rộng lớn ở nhiều nước trên thế giới. Sự khẳng định đó lại một lần nữa xác nhận rằng công lao thừa tiếp, khơi ngòi và kết hợp độc đáo giữa Phật giáo Ấn Độ và  Phật giáo Trung Quốc để hình thành Thiền tông khởi nguyên từ công lao to lớn của Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma./.

       (Trích một phần từ Phật pháp Bách vấn tập I,21/11/2024)

{]{

KHỞI NGUYÊN CỦA THIỀN TÔNG Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét