PHẬT GIÁO QUAN NIỆM VỀ CỦA CẢI
Của cải không nên quá mong cầu, nếu bị mất đi
cũng đừng quá buồn rầu, vì không sớm thì muộn nó cũng phải phân tán. Nên cần nhớ,
của cải từ đâu mà có? Nếu có rồi cần phải
sử dụng như thế nào. Để một mai chúng mất đi cũng không trở thành vô nghĩa.
Trên
thế gian này toàn bộ của cải có được đều vô thường, thật gian nan mới kiếm được.
Nhưng cuối cùng không thể không dùng đến, cho nên tiêu hao thật dễ dàng. Chúng
ta là người học Phật, đối với của cải không nên cưỡng cầu, nếu có bị mất đi thì
cũng không nên vì thế mà quá đau buồn, bởi vì không sớm thì muộn chúng cũng phải
không cánh mà bay. Trái lại cần phải chú ý, của cải có từ đâu đến mà có được? Đến rồi thì phải nên sử dụng nó bằng cách nào
cho phù hợp, để nó tiêu hao một cách có ý nghĩa.
Vàng
là rắn độc:
Khi
Phật còn tại thế, một hôm Phật và ngài A Nan cùng đi khất thực, đi một đoạn đường
ngang qua một mương nước, đức Phật thấy bên lề mương nước có một cái hủ. Đức Phật
quay lại nói với ngài A Nan:
Này A
Nan, đó là rắn độc!
Ngài
A Nan liền đi tới, vừa nhìn thấy vật dưới mương nước cũng liền nói:
Vâng!
Đúng là rắn độc, thưa Thế Tôn.
Rồi hai thầy trò tiếp tục đi. Lúc đó có hai
cha con người nông dân đang cày ruộng gần đó, nghe có rắn độc, mới tò mò chạy đến
xem. Nhưng vừa thấy vật dưới mương nước hai cha con vui sướng mừng đến nổi
không thốt được nên lời. Làm gì có rắn độc ở đây, chỉ có hủ vàng. Hai cha con mừng
đến tận trời xanh, cùng mang hủ vàng về nhà.
Được vàng rồi, bây giờ làm gì
đây? Hai cha con chọn một thẻ vàng rồi đem đến tiệm mua bán vàng đá quý bán. Chủ
tiệm thấy hai cha con rất nghèo, liền sanh tâm nghi ngờ, âm thầm đi quan phủ
báo cáo. Chỉ trong chốc lác, hai cha con đều bị còng tay dẫn đi. Quan phủ còn đến nhà lục soát, tịch thu hủ
vàng mang đi, sau đó kết tội hai cha con phạm vào tội ăn cắp tài sản của quốc
vương.
Lúc bấy giờ, quốc vương chính
là vua Ba Tư Nặc, theo quy ước của pháp luật, vật quý trong đất tức là thuộc của
quốc vương, nên hai cha con bị kết án tử hình. Ngay nơi xét xử, người cha chợt
nhớ lại, liền quay sang nói với con rằng:
Ngài A Nan ơi! Thật đúng là rắn
độc!
Người con cũng nhớ lại, thật
không sai, ngay lúc này vàng bạc chính là rắn độc, hại đến mất mạng, liền quay
sang cha mình và nói:
Vâng, chính là rắn độc, Thế
Tôn ơi!.
Quan xét xử, chính là một Phật
tử, nghe cuộc đối thoại của hai cha con, sanh tâm hiếu kỳ, đem câu chuyện này
tâu lên vua Ba Tư Nặc. Vua nghe xong liền hạ lệnh cho hai cha con hồi triều và
điều tra. Hai câu nói, “A Nan ơi! Đúng thật là rắn độc” và “vâng, chính là rắn
độc, Thế Tôn ơi”, được phát xuất từ đâu? Hai cha con tường thuật lại sự việc nhặt
được hủ vàng ngoài đồng cho quốc vương nghe. Vua biết được câu nói đó chính là
của Đức Phật và ngài A Nan, nên nói với họ rằng:
Đây là lời khai thị của Đức
Phật, bây giờ các ngươi đã tin lời dạy của Đức Thế Tôn chưa?
Họ bèn thưa, đúng là rắn độc,
hại chúng tôi đến mất mạng, làm sao mà không tin được. Vua Ba Tư Nặc biết họ đã
thấm nhuần lời dạy của Phật, liền tha cho hai cha con được tự do trở về.
Qua câu chuyện này, ta thấy
tiền vàng là gốc nguồn của tội ác, khiến con người phải đoạ lạc, khiến con người
phạm tội đến nổi phải mất mạng, có biết bao nhiêu người trên thế gian này phải
chịu khổ đau, mà không phải vì tiền?
Trên phương diện khác, nên dùng tài sản để hộ trì vào những việc lớn có
lợi ích. Phật pháp khuyên chúng ta tu phước tu huệ, đem của ra bố thí làm từ
thiện, phước đức này chính là tư lương để sớm đắc Phật quả.
Đem của cải bố thí làm phước,
chính là tu tập phước đức, vì muốn thành đạt nên phải chuẩn bị tư lương, cho
nên sử dụng tài sản như thế nào để có ý nghĩa nhất, Phật pháp không ghét bỏ của
cải hay xem nó như rắn độc, mà của cải chính là rắn độc, đồng thời cũng là tư
lương. Vấn đề ở chỗ chúng ta làm thế nào
để giải quyết nó! biết sử dụng nó, biến rắn độc thành đồ bổ dưỡng cho mọi
người.
Của cải do phước bố thí
mà có.
Của cải
được sung túc là nhờ vào thiện nghiệp, thành tựu phước mà có chứ không phải do
thần thánh ban cho: Nói đến của cải tài sản, tất cả đều do phước bố thí mà có,
nhân do bố thí nên nhận được quả giàu sang. Chúng ta có được của cải, dù chỉ nhỏ
như hạt gạo, hay lớn như vũ trụ, đều nương vào phước nghiệp mà có, không phải
do thần linh ban cho.
Người
tin theo thần giáo: Họ cho rằng tất cả tài vật mà họ đang được hưởng thụ, chính
là do thần tạo ra, đến những thức ăn uống hằng ngày có được cũng do thần ban
cho, nên cảm ân huệ của thần. Đây vốn là: “Nương vào trời mà có cơm ăn”, đó là
cách suy nghĩ của những người tin theo thần giáo, đối với khoa học chưa phù hợp.
Đức Phật dạy: “Nương vào tự thân vun bồi phước đức mà có được”. Kiếp trước chúng
ta gieo nhiều phước thiện, nên kiếp này chúng ta thọ nhận giàu sang. Ngược lại, nếu kiếp trước gieo trồng phước thiện quá ít ỏi,
thì kiếp này sẽ túng thiếu đến nỗi không đủ nuôi thân. Cho nên, phước nghiệp thời
quá khứ quyết định đến của cải và sự hưởng thụ của chúng ta hiện tại.
Của cải có được nhờ nhân quá khứ, nhưng
phải có duyên hiện tại.
Nhờ kiếp trước có bố thí, nên
hiện tại được phước báo. Nhưng có Nhân mà không có duyên thì quả không thành. Có
nhân mà cần phải có duyên hỗ trợ của hiện tại nữa.
Có một anh chàng nọ, sinh ra
trong một gia đình giàu có, khi cha mẹ còn sống anh không phải lo cái ăn cái mặc,
chỗ ở. Đến cha mẹ chết anh bắt đầu bán ruộng, vườn, tiền bạc, bán nhà để tiêu
dùng. Cuối cùng không còn gì để bán anh thành người đi ăn xin sống qua ngày. Vì
anh có phước đời trước nên không làm mà vẫn có ăn có ở là do nhân quá khứ. Hiện
tại anh không gieo nhân, không tạo duyên nên hưởng hết phước thì phải chịu cảnh
nghèo nàn. Ví như nhà nông, gieo hạt giống
xuống mà không chịu cho phân bốn, nước, và chăm sóc nhổ cỏ thì cuối mùa vụ
không thể thu hoạch được như ý muốn.
Vì thế tuy có nhân tốt ở quá
khứ, nhưng hiện tại lười biếng không siêng năng tinh tấn, thì sẽ gặt hái quả xấu
không như ý muốn. Chúng ta gieo phước điền mà đạt được phước báo cũng thế,
không thể nào chỉ dựa vào phước nghiệp đời trước, mà cần phải có công lao ở hiện
tại, vì thế mọi người cần phải lưu ý điểm này!
Được quả phước mà tạo nhân
ác.
Của cải tài sản có là do phước nghiệp bố thí đời
trước mà có được. Như vậy, những người
cướp giật, lường gạt, hối lộ, tham ô chiếm đoạt tài vật của người mà có, cũng
nhờ vào phước báo mà có được sao? Đúng vậy!
Đây quả là quá nguy hiểm! được
tài sản là nhờ có phước báo, như thế chẳng khác nào khuyến khích người ta làm
ác sao? Không phải vậy, theo nhãn quan
Phật giáo, những trường hợp kiếm được tài sản phi pháp, nói theo nhân quả của
quá khứ thì nhờ phước nghiệp mà có; nhưng nói theo duyên hiện tại thì phương
pháp có được của cải, lại gieo cái nhân không tốt cho đời sau. Sử dụng thủ đoạn
bất hợp pháp để chiếm đoạt tài sản, thậm chí phần phước có được không thể hưởng
thụ, mà trái lại phải nhận tội ác là quả báo khổ. Như những quan chức tham ô, những kẻ lừa gạt
người để chiếm đoạt tài sản, những kẻ cướp giật. Cuối cùng bị sa lướt pháp luật
cũng phải đi tù hoặc tử hình, nhận hậu quả đau đớn. Tuy có phước được làm quan,
làm giàu nhưng không được hưởng, lại hưởng quả báo ác đã gieo hiện đời, không đợi
đến kiếp sau mới thọ lãnh. Nhân quả không bao giờ sai là vậy.
Tài sản chúng ta có được đều
do phước nghiệp mà có, đây là đạo lý triệt để. Nhưng nếu đã nhờ phước nghiệp
thì cũng vẫn cần dùng đúng theo phép tắc. Nếu dùng thủ đoạn phi pháp để chiếm
đoạt tài sản, thì đây là trồng nhân ác, vô tình đánh mất phước nghiệp của mình
sẳn có. Thế nên, Đức Phật dạy: “Như pháp cầu tài, không dùng phi pháp”.
Nhân tốt gặp duyên tốt thì trổ
quả tốt, nhưng nhân tốt mà gặp duyên xấu nên phải gặt quả xấu, đó là đạo lý tất
nhiên là vậy. Không có bàn tay ngoại giới nào giúp ta trong việc tạo nhân xấu để
hưởng quả tốt bao giờ.
Xử lý của cải.
Tránh xa việc làm phi pháp, y
theo pháp để truy cầu của cải, nhưng đã có của cải thì làm thế nào để xử
lý? Có hai trường hợp.
Thứ nhất: Tiết kiệm hay chi
tiêu cần phải đúng mức. Không nên keo kiệt mà giữ của. Cần phải biết mức thu
vào hay chi ra, không nên tiêu xài quá mức, khiến cho kinh tế gia đình gặp phải
khó khăn, cần phải biết tiết độ. Cúng dường, bố thí cũng phải xem coi mức thu
nhập và chi tiêu cho phù hợp. Tín tâm tuy khẩn thiết, hoan hỷ bố thí, nhưng
không nên vì bố thí cúng dường mà dẫn đến kinh tế gia đình bị túng quẫn, sẽ
phát sinh chướng ngại.
Thứ hai: Chú ý đến việc tích
trữ hay sử dụng tài sản: Nhờ vào phước nghiệp mà có được tài sản. Đức Phật dạy,
phân tài sản làm ra bốn phần:
- Một phần của cải để kinh
doanh hằng ngày – Một phần lo cho gia đình chi tiêu ăn uống sinh hoạt mọi việc
trong gia đình- Một phần để làm việc phước
thiện, như cúng dường Tam bảo, bố thí người nghèo khó… Một phần dự trữ phòng
khi gặp những chuyện không hay ngoài ý muốn.
Làm phước: Làm người không thể chỉ vì bản thân, chỉ biết đời
hiện tại, nên quan tâm đến lợi ích xã hội và phúc lạc đời sau cho bản thân. Vì
thế, đối với lợi ích chung trong xã hội: Văn hoá, làm từ thiện, cho đến cúng dường,
hộ trì Tam bảo, đều dùng một phần thu nhập được để làm phước. Đây không phải vì
mình mà tích phước, mà còn vì hạnh phúc cho nhân loại. Vì vậy, cả bốn phương diện
này đều cần đến chi tiêu kinh tế, nên dự tính phải kiện toàn nhất, đồng thời là
phương pháp xử lý của cải hợp lý nhất.
Của cải chưa chắc là của mình: Phật dạy của cải thuộc về của năm nhà: Một là nạn
nước, hai là nạn lửa, ba nạn cướp giật, bốn là nạn vua quan tịch thu, năm là nạn
vợ con phá tán.
Nước sẽ cuốn trôi tài sản, lửa
sẽ thiêu rụi của cải mà ta cực khổ làm ra,
hoặc bị quan chức tịch thu, hoặc
trộm cắp lấy hết của cải, và con cháu bất hiếu mặc tình tiêu xài hoang phí. Hiện
nay vấn đề này càng nhiều, chiến tranh phá hại, vật chất bị mất giá. Cho dù là
đại gia, cũng chỉ cần một ngày là trắng tay. Thật ra, con người không thể tránh
khỏi được cái chết, cuối cùng cũng phải đối diện với vô thường. Những tài sản gầy
dựng được, không có thứ gì có thể đem theo được, như vậy còn cho rằng chúng là
của tôi sao? Tích trữ để nuôi tuổi già,
đối phó khi hoạn nạn, nhưng có người ngu, của cải giàu sang, nhưng không dám
mang ra chu cấp cha mẹ, chăm lo con cái, đừng nói chi đến việc làm từ thiện, đến
nỗi lo cho bản thân mình còn không dám tiêu xài, thật là không biết tích của để
làm chi nữa?
Bố thí với tâm từ bi và kính
trọng: Tích luỹ cho nhiều, cuối cùng cũng chẳng còn, hưởng thụ cho đã cuối
cùng cũng hết, nên lấy của cải đang có được đem làm công đức, tương lại sẽ gặt
hái hạt giống tốt. Đó chính là nỗ lực làm cho phước báo tăng trưởng. Bố thí,
nhìn trên hình thức thì dường như đang bị hao tổn, nhưng thật sự nó đang dẫn
phước báo sung túc trong tương lai.
Có hai loại phước điền công đức
lớn:
Một là bi điền: Lấy của cải đi cứu giúp những người đơn độc,
nghèo thiếu, bố thí thuốc men, cứu giúp người hoạn nạn. Những công tác xã hội,
cứu tế, chính là gieo trồng hạt giống phước báo xuống thửa ruộng từ bi, vì đây
thật sự cảm thông thương xót người nghèo khổ.
Hai là ruộng kính: Bổn phận làm con phải kính hiếu cha mẹ, ông bà,
phụng dưỡng cha mẹ, nếu là đệ tử của Đức Phật phải kính ngưỡng Tam bảo…cũng
chính là gieo hạt giống phước điền, bởi vì đây là đối tượng đáng phải tôn kính.
Người có gieo hạt giống phước
xuống hai thửa ruộng Bi điền và Kính điền, hiện tại hay tương lai, nhất định sẽ
gặt hái được những điều thiện lành và phước báo. Người bố thí thì “Phước duyên
của sự bố thí” thì sẽ theo họ đời nay và sang đời khác, những tài sản mà họ có
được, nước không thể nhận chìm, lửa không thể thiêu đốt, giặc cướp, trộm cắp
không thể lấy; ác bá không thể lấy, con cái không thể phá. Cho nên nói: “Bố thí
mà có từ bi, cung kính thì mới thật sự thuộc về mình”.
Vì thế nói đến quả báo về của
cải thì: “Cất giữ chưa chắc thuộc về mình; dùng tâm từ bi và tôn kính để bố thí
thì mới thật sự thuộc về mình”. Đây điểm
then chốt của sự thực tập tu hành về hạnh lợi tha bố thí. Và biến tài sản hữu lậu
thành tài sản vô lậu, lâu bền hơn./.
(Trích từ: Phước Huệ tuỳ thân- HT Ấn
Thuận)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét